Hiển thị các bài đăng có nhãn fish. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn fish. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 3 tháng 5, 2010

Trời ơi, cá!

Hình này minh họa cho loài cá tên là Pangasius Catfish. Còn tôi, con cá này tôi gọi là cá vồ, chẳng biết đúng không?
--
Tôi viết entry này vì có một người bạn từ thế giới ảo (lại bạn từ thế giới ảo!) vừa có câu hỏi (bâng quơ) rằng hình như mấy con cá tiếng Anh là albacore, yellow tail trong tiếng Việt là "cá thu" thì phải.

Một câu hỏi tưởng chừng đơn giản cho một người tự khoe là đã từng dạy ngoại ngữ bao nhiêu năm, nhà có nhiều từ điển các loại, thế mà khi tôi nhận được nó thì tôi ... thực sự bàng hoàng vì cả 2 từ này tôi đều chưa biết, hic hic!

Phải nói trước để tự bào chữa một chút: gia đình tôi ít ăn cá biển (hình như đó là thói quen của người Bắc), mà chỉ hay ăn cá sông. Ngay cả cá sông đi nữa thì cũng chỉ ăn một số con quen thuộc thôi, đó là cá lóc (người Bắc gọi là cá quả), cá diếc (con nhỏ cỡ hơn một bàn tay, trung bình khoảng 500gr-600gr một con, thịt trắng mềm, ngọt, nhưng rất nhiều xương dăm, sau này ít thấy bán), cá trê (sau này cũng ít ai ăn), cá rô (lại càng ít người ăn hơn nữa, ấy là tôi nói ở SG ấy, vì nó nhiều xương quá), thế thôi.

Còn cá biển, thì chỉ ăn có mỗi một loại, đó là cá thu. Những con khác, mẹ tôi ... không ăn! Tại sao ư, tôi cũng không biết nữa, truyền thống là như thế đó: you accept it without questioning!

Khi lấy chồng, thì về nhà chồng (cũng người Bắc) có ăn thêm mấy loài cá sau: cá nục, cá bạc má, cá ngừ, cá cơm. Hiểu biết của tôi về cá (ăn được) tăng thêm được một chút. Nhưng trong biết bao loài cá được bán, gia đình bên chồng tôi cũng chỉ ăn mấy loại vậy thôi. Tại sao ư? Cũng không biết!

Cho nên rõ ràng là lâu lâu người ta cũng cần phải có một biến cố gì đó, ví dụ như ... lập gia đình (!!!), hoặc ra sinh sống ở nước ngoài, hoặc có những người bạn rất khác mình, để có cơ hội mà nhìn lại những gì mình chấp nhận như truyền thống, và đặt lại câu hỏi về giá trị của nó. Để thay đổi, nếu cần.
Hình con cá ngựa (seahorse) này trên wikipedia đó, đẹp ghê chưa, đem lên đây cho xôm tụ!

Cá sông còn mấy loài nữa có họ hàng với nhau mà tôi biết là cá hú, cá tracá vồ (?) (phát âm là cá dzồ, giống như cách phát âm từ "dzô" khi uống bia "chăm phần chăm" ấy), ngoài chợ thì bán dưới tên là cá bông lau (bụng trắng phếu, da trắng, vây đỏ), bây giờ hay gọi là cá da trơn hay cá basa ấy, thì ngày xưa mẹ tôi dứt khoát không ăn vì nỗi ám ảnh cầu cá!!!! Nhưng bây giờ thì tôi cũng ăn, vì ủng hộ hàng VN mà, đặc biệt là hồi Mỹ tẩy chay cá basa của VN vì nói là bán phá giá, nên các nhà sản xuất phải tìm cách tiêu thụ trong nước.

Well, lạc đề quá. Quay lại chuyện cá: do thói quen đã nêu trên, nên vốn từ vựng của tôi về cá, mà nhất là cá biển, vô cùng ít ỏi.

Vốn từ về cá trong tiếng Việt ngoài những loài cá đã nêu ở trên còn được thêm có vài con nữa, chủ yếu do chúng xuất hiện trong thơ, văn, trò chơi dân gian, hoặc trong ... thực đơn của nhà hàng, đó là:
- cá mè (cá mè một lứa),
- cá sấu (trong trò chơi: cá sấu lên bờ; well gần đây tôi đã được ăn thịt cá sấu rồi và thấy nó rất ngon!),
- cá chẽm (cá chẽm chưng tương, ngon!),
- cá đuối (nghe nói có roi làm bằng đuôi cá đuối?),
- cá đối (là cá gì không biết?),
- cá chim (chim thu nụ đé, 4 loài cá biển thịt ngon),
- cá thác lác (chà, con này thì ăn hơi nhiều nhưng chỉ biết con cá đã bị xẻ thịt, và thịt đã được nạo ra chứ không biết cả con cá còn sống trông như thế nào),
- cá bống (nổi tiếng trong chuyện tấm cám, cũng đã từng ăn cá bống kho tiêu, rất ngon),
- cá linh (hồi mấy năm đầu sau ngày thống nhất thì đây là loài cá rẻ tiền, nhưng sau này hình như bị đánh bắt cạn nguồn rồi nên trở thành đặc sản rất mắc tiền),
- cá mai (làm gỏi, ăn sống, ăn rồi nhưng chưa thấy con cá sống bao giờ) ...

Chà chà, kể một hồi thấy kiến thức về cá của tôi cũng ... khá hơn tôi tưởng nhỉ?

Vốn tiếng Việt về cá đã ít, thì hỏi làm sao mà có nhiều từ tiếng Anh cho được. Nên lâu nay tôi hoàn toàn yên tâm (!) với vốn từ song ngữ Anh-Việt/Việt-Anh về cá ít ỏi mà tôi (tưởng mình) biết như sau:

+ cá thu = cod (?) (cái này hay thấy trong cụm từ: dầu gan cá thu: cod liver oil) Nhưng mà trời ơi, tôi mới tra trong "baamboo tra từ" thì nó dịch con "cod" này ra thành con "cá tuyết", mà cá tuyết là gì thì tôi hoàn toàn chưa nghe trong tiếng Việt quý dzị ạ!
+ cá thu = mackerel có lẽ mackerel mới đúng là cá thu, chứ không phải cod!
+ cá ngừ = tuna Nhưng trong "baamboo tra từ" thì cả mackerel lẫn tuna đều được dịch là "cá ngừ"! Thôi thì ta cứ chọn mackerel làm cá thu và tuna làm cá ngừ vậy!
+ cá mòi = sardine
+ cá hồi = salmon, chỉ thấy trứng cá hồi chứ chưa thấy con cá hồi nào bao giờ!
+ cá basa = catfish (có nhiều loại lắm nhưng gọi chung là catfish thôi!)Còn theo SGK - comment bên dưới - thì có thể gọi nó là basa fish? Cái này SGK nói, không phải tôi!
+ cá cơm = anchovy (hay được dùng để làm topping của pizza)
+ cá trê = mud fish (cái tên nghe ... rùng rợn quá, làm sao Tây dám ăn cá này nhỉ?)
+ cá mập = shark
+ cá heo = dolphin
+ cá sấu = crocodile (cá sấu châu Mỹ là alligator?)

Hình như hết rồi đó. Vốn liếng tiếng Anh về cá của tôi (sau khi được bạn bè và Internet cập nhật lại) cũng chỉ được vậy thôi, bà con ơi!

Vậy nên hôm nay nhận được câu hỏi bâng quơ của bạn tôi (bạn ảo) thì tôi ... choáng váng! Bèn lên Internet tìm, và ... càng hoảng hơn nữa khi thấy sự đa dạng của các loài cá. Ví dụ như chỉ riêng cá da trơn thôi đã phức tạp như thế này, xem ở đây. Nên mới có cái tựa entry này: Trời ơi, cá!

Câu hỏi bâng quơ của bác, Tám ạ, em xin chào thua không dám trả lời đâu! Nếu bác rảnh, bác tìm hiểu về cá, rồi dạy lại cho em, em sẽ cố học bác ạ, nếu trí nhớ già, hoạt động theo kiểu nghịch thường này của em cho phép em có thể học!

Hic hic!

Viết lăng nhăng quá, nhưng mà để giảm stress, chống lão hóa mà!
Con cá này, tôi thấy giống cá bạc má, chẳng rõ có đúng không nữa? Trên Internet, họ gọi nó là con tuna, hu hu hu!
Tra trên mạng thì thấy "cá bạc má" là Indian mackerel, "cá thu Ấn độ" (?)
Con này là con cá ngựa, tiếng Anh là seahorse (ngựa biển), nghe hay hông các bác?
--
Viết thêm:
Nhân đọc về cá nên tôi tìm thấy vài thông tin tôi cho là khá ... thú vị (?) về cá ba sa của VN xuất khẩu ra nước ngoài, đưa lên đây để lưu và giới thiệu với mọi người.

1. Bài viết "Don't eat this fish!", ở đây. Đọc xong thấy kinh hoàng quá, và không hiểu nó có nói đúng không? Các nhà xuất khẩu thủy sản của VN ơi, đọc đi mà biết đường đối phó nhé. Nếu họ nói đúng chỗ nào thì phải sửa chữa ngay, thời đại toàn cầu hóa rồi, VN đã là một thành viên của WTO còn gì nữa???

À mà trong này họ gọi cá basa của mình là Vietnamese cobbler fish đấy. Học thêm được một từ.

2. Trang pangasius-vietnam.com, với nhiều thông tin về các loại cá da trơn xuất khẩu của VN. Trong đó có bài "Oppose definition of catfish to include Vietnam's pangasius", ở đây. Đọc kỹ có lẽ sẽ thấy các thông tin có thể phản biện bài 1 ở trên, hy vọng thế.

3. Trang thefishsite.com, thấy có nhiều thông tin cần thiết cho giới xuất khẩu thủy sản của VN (tôi đoán thế), với bài này ở đây, có vẻ phấn khởi cho các nhà sản xuất VN, in spite of the difficulties that we have heard about. Cá tra VN ơi, cố lên!

4. Bài này hay, nói về ngộ độc khi ăn các loài cá biển, và có nói đến khó khăn trong việc dịch các từ liên quan đến cá sang tiếng Việt, ở đây. Nhân tiện, BS Hồ Văn Hiền này có liên quan gì đến BS Hồ Văn Hải nhà ta không nhỉ?
--
Cập nhật cuối cùng cho entry này (vì mệt lắm rồi, nếu có gì mới thì sẽ cho vào entry mới thôi!):

Albacore chính là cá ngừ, Tám ơi. Hình của nó, lấy từ wikipedia, dưới đây nè. Các bác vào đây để đọc thêm về nó nhé.
Phải con albacore đây không, Tám?Hurrah, nó đây rồi, không phải 1, mà 6 chú lận. Còn chú đuôi vàng là Yellow Tail, thấy không, dịch từng chữ là xong, dễ ợt hà!:-) Hình do Bà Tám cung cấp.