Hiển thị các bài đăng có nhãn memory. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn memory. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2013

Sài Gòn có mùa Đông không nhỉ?

Câu hỏi này chợt xuất hiện trong đầu tôi sáng nay khi chạy xe đến trường cho một buổi seminar ngày chủ nhật.

Buổi sáng ngày cuối tuần, đường vắng. Bầu trời Sài Gòn vốn thường ngày xanh ngắt và nắng vàng chói lọi đến nhức cả mắt, hôm nay lại có màu trắng xám u buồn. Và lạ hơn, trời có những hạt mưa, hạt thưa nhưng nặng và quất mạnh xuống thịt da những người đi đường, lạnh buốt. Và gió, thỉnh thoảng lại thổi đến, nhẹ thôi, nhưng không phải là làn gió mát hào sảng của phong cách Sài Gòn mà ta vẫn quen, mà là làn gió buốt, làm ta co người lại vì lạnh, và nghĩ đến cái rét mướt của mùa Đông miền Bắc.

Mùa Đông mà tôi đã biết đến từ rất lâu qua văn của Thạch Lam với Nhà mẹ Lê - một mùa Đông buốt giá, âm u, và rất nghiệt ngã với những phận nghèo. Và mùa Đông mà chính tôi đã trải qua, lần đầu tiên là vào năm 1991 khi tôi ở Hà Nội khoảng 1 tuần trước khi đi sang học ở Úc một năm, VN lúc ấy chỉ vừa mới mở cửa và Hà Nội trong vẫn còn vẻ nghèo nàn, tiều tụy của một thủ đô mới trải qua một cuộc chiến tranh tàn khốc và một nền kinh tế bao cấp. Tôi vẫn nhớ, lúc ấy là lần đầu tiên tôi thấy cả tuần lễ bầu trời cứ xam xám buồn bã như vậy, thỉnh thoảng lại mưa phùn rả rích, và không hề thấy ánh mặt trời. Đó là lần đầu tiên tôi cảm thấy nhớ và thực sự biết ơn về bầu trời xanh và ánh nắng vàng chói chang hào phóng của Sài Gòn, và mới thực sự hiểu được hết cái cảnh khổ của những người nông dân đói rét trong văn của Thạch Lam, Nam Cao và Ngô Tất Tố.

Sài Gòn có mùa Đông không nhỉ? Thực ra câu hỏi này đã được trả lời từ rất lâu rồi, với bài hát nổi tiếng mà một người bạn của tôi thời học Gia Long và sau đó cùng tiếp tục học với nhau thêm 4 năm đại học đã rất thích và hát rất hay: Anh ở trong này chưa thấy mùa Đông/Nắng vẫn đỏ mận hồng đào cuối vụ .... Tôi nhớ đã đọc ở đâu đó rằng tác giả của bài thơ rất hay và được nhạc sĩ Phạm Tuyên phổ nhạc ấy vốn là một anh bộ đội, năm đầu tiên 1976 ở trong Nam và hưởng mùa Đông đầu tiên ở Sài Gòn, đã thốt lên những lời ca ngợi rất thật lòng ấy: "Thật diệu kỳ là mùa Đông phương Nam"



Nhưng thật ra theo tôi nhớ thì chính mùa Đông năm 1976 ấy Sài Gòn rất lạnh - well, lạnh theo tiêu chuẩn của Sài Gòn.. Đến nỗi mọi người bảo, mấy anh bộ đội miền Bắc vào đây dường như đã đem theo cả cái lạnh vào. Hình như là nhiệt độ ở SG năm ấy xuống chỉ còn 16, 17 độ, một điều rất hiếm thấy- nên mọi người đều bất ngờ, chẳng ai có đủ quần áo lạnh để mặc và các cửa hàng bán đồ len bỗng đắt hàng khủng khiếp. Nhưng nếu so với cái lạnh của miền Bắc thì vẫn chưa thấm tháp vào đâu cả, vì chỉ mới bằng nhiệt độ thấp nhất của máy lạnh mà thôi. Và chắc chắn là những người nghèo của Sài Gòn khó lòng mà hiểu được đúng ý nghĩa đói rét của miền Bắc; nếu có thì người nghèo ở đây chỉ hiểu từ  đói khát mà thôi (thì trời nắng mà).

Vâng, Sài Gòn, thành phố phương Nam ấm áp đến diệu kỳ ấy, chắc là không thể có mùa Đông đúng nghĩa. Nhưng, thỉnh thoảng vẫn có một thoáng mùa Đông đến với Sài Gòn, như hôm nay. Để mọi người hiểu được tại sao một anh bộ đội miền Bắc chỉ hưởng một mùa Đông đầu tiên tại Sài Gòn là đã làm được một bài thơ xuất sắc như bài thơ đã được phổ nhạc ấy - bài Gửi nắng cho em. Và cũng để cho mọi người nhận ra cái hào phóng của khí hậu miền Nam, lúc nào cũng thừa nắng vàng và thừa những làn gió mát.



"Cây bàng mồ côi mùa Đông"?






Cây khế trĩu quả của nhà hàng xóm

Chùm hoa Sử quân tử trồng làm giàn cổng vẫn nở những chùm hoa hồng hồng xinh xắn

Và cây bông Trang trắng nhà tôi vẫn cứ um tùm, tỏa hương thơm ngát

Buổi trưa, trở về nhà giữa 12 giờ mà trời vẫn không hề có nắng. Tôi đi lang thang ở khu vực gần nhà, quanh khu Trần Bình Trọng, Lê Quang Định, chợ Bà Chiểu để chụp lại hình ảnh "mùa Đông Sài Gòn". Vì tôi nghĩ dường như khung cảnh cũng hơi giống mùa Đông đấy, trời giữa trưa mà âm u, đường vắng. Những cái cây trong sân nhà tôi đã rụng bớt lá, trông khá xác xơ.

Nhưng về nhà mở hình ra mới thấy dù lá đã rụng bớt, nhưng cây vẫn rất xanh tươi. Đặc biệt là cây bàng, bàng mùa Đông mà lá vẫn dày, xanh mướt. Và ôi kìa, lại còn có cả một cây Phượng với những chùm hoa nở muộn màng - muộn, hay là quá sớm nhỉ. Thế này thì làm sao mà bảo là mùa Đông được cơ chứ?

Đăng lên đây chia sẻ với các bạn. Và để biết rằng, Sài Gòn thực sự không thể có mùa Đông! Không có ở bên ngoài, mà chắc là cũng không có ở trong lòng nữa, phải không?

Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi!
---------
Đưa lên đây thêm hai tấm hình chụp vào ngày 23 Tết Nhâm Thìn 2012, cũng vào lúc giữa trưa, để thấy SG nắng vàng chói chang hào phóng như thế nào. Thật diệu kỳ là mùa Đông phương Nam, phải không các bạn?



Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012

"Lòng ta là những hàng thành quách cũ ..."

Tình cờ đọc lại được câu thơ này trên facebook của một người học trò cũ. Chợt nhớ lại, nhớ đến tê tái, một bài thơ của Ông đồ Vũ Đình Liên mà tôi đã đọc từ hồi bé trước năm 1975.

Nói thêm, tôi luôn cảm thấy có một cái gì đó thân thương và gắn bó với nhà thơ Vũ Đình Liên, là người cùng họ, cùng chữ lót với cha tôi mà tôi vẫn tự nhủ hẳn phải là bà con xa với mình.

Xin chép lại bài thơ ấy ở đây cho chính tôi, và cho những người bạn đọc blog này, những người mà tôi tin rằng có một chút gì đó đồng cảm với tôi.

Nhớ ngày xưa quá đỗi, nhớ da diết và tê tái.

Lòng ta là những hàng thành quách cũ
(Vũ Đình Liên)

Dậy đi thôi con thuyền nằm dưới bến,
Vì đêm nay ta lại căng buồm đi
Mái chèo mơ để bâng khuâng trôi đến
Một phương trời mây lọc bóng trăng khuya

Gió không thổi, nước sông trôi giá lạnh
Thuyền đi trong bóng tối lũy thành xưa
Trên chòi cao, từ ngàn năm sực tỉnh
Trong trăng khuya bỗng vẳng tiếng loa mơ

Từ ngàn năm cả hồn xưa sực tỉnh
Tiếng loa vang giây lát động trăng khuya
Nhưng giây lát lại rơi im hiu quạnh
Cả hồn xưa im lặng trong trăng khuya

Trôi đi thuyền! cứ trôi đi xa nữa
Vỗ trăng khuya bơi mãi! cánh chèo mơ
Lòng ta là những hàng thành quách cũ
Từ ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa.


----
Cập nhật ngày 11/12/2012

Tôi nhận được comment của một bạn đọc blog có tên là levinhhuy với những góp ý rất hay, rất sâu sắc dưới đây, nên đăng lại nguyên văn ở đây để mọi người cùng đọc (vì không phải ai cũng có thói quen đọc comment). Các bạn đọc phần in nghiêng dưới đây nhé, chữ màu xanh là của nhà thơ Vũ Đình Liên, chữ màu đen là của levinhhuy.
------

Lúc nhỏ tôi cũng học thuộc lòng bài này trong Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh & Hoài Chân, nếu tôi nhớ không lầm thì chữ mơ trong “mái chèo mơ” được viết hoa; “mây lọc lóng trăng khuya” chứ không phải “bóng trăng khuya”, và “Tự ngàn năm” chứ không phải “Từ ngàn năm”… Tuy chỉ là đôi chữ thôi, nhưng ảnh hưởng lớn đến âm hưởng cùng hình ảnh được gợi lên trong bài thơ. Xin chép lại theo bản được trích trong Thi Nhân Việt Nam (Nxb Hoa Tiên, tái bản lần 2, SG 1968), có cả chú thích của chính Vũ Đình Liên.

Lòng ta là những hàng thành quách cũ(1)

Dậy đi thôi con thuyền nằm dưới bến,
Vì đêm nay ta lại căng buồm đi.
Mái chèo Mơ để bâng khuâng trôi đến
Một phương trời mây lọc lóng trăng khuya.

Gió không thổi, nước sông trôi giá lạnh,
Thuyền đi trong bóng tối lũy thành xưa.(2)
Trên chòi cao, tự ngàn năm sực tỉnh
Trong trăng khuya bỗng vẳng tiếng loa mơ.

Tự ngàn năm cả hồn xưa sực tỉnh,
Tiếng loa vang giây lát động trăng khuya,
Nhưng giây lát lại rơi im, hiu quạnh,
Cả hồn xưa yên lặng trong trăng khuya.

Trôi đi thuyền! Cứ trôi đi xa nữa!
Vỗ trăng khuya bơi mãi! Cánh chèo Mơ!
... Lòng ta là những hàng thành quách cũ,


Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa.
(báo Tinh Hoa)
_________
Chú thích:
(1) Làm sau khi xem lễ Nam Giao 1936.
(2) Đã nói: “Lòng ta là những hàng thành quách cũ”, rồi lại nói cỡi “thuyền đi trong bóng tối lũy thành xưa”, bài thơ tựa hồ vô nghĩa. Nhưng nếu ta nghĩ rằng chỉ hồn ta mới có thể đi du ngoạn trong hồn ta thì ta sẽ thấy là tự nhiên vậy.


Đọc lại bài thơ này quả là chợt sững người, nghe hồn dậy nhói nỗi sầu thế sự mang mang, chị Phương Anh ạ!


Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2011

Hôm nay ngày gì?

Xời ơi, hỏi cái gì mà "quê" vậy? Tất nhiên hôm nay là ngày 30/4, một trong những ngày lễ lớn. Public holiday, nói theo kiểu tiếng Anh ấy.

Nhưng 30/4 là ngày gì mới được chứ? Thôi đi, đừng làm bộ nữa nghen, cứ mở báo ra đọc thì biết ngay, chứ sao lại hỏi cắc cớ vậy? Thì đó, 36 năm kỷ niệm "ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước".

Cụm từ "giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước" là một cụm từ tôi nghe đã rất quen, theo kiểu hơi nhồi sọ, giống như khi nghe quảng cáo mãi rồi nhập tâm vậy. Tò mò, tôi lên mạng gõ nguyên si những từ ấy (theo cú pháp như thế này: "giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước") và có ngay kết quả hơn hai triệu tư lượt. Thế là đã rõ.

Ừ thì là ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thống nhất đất nước thì rõ rồi, nhưng mà ... còn cái vụ "giải phóng" thì có vẻ có những người không ưng cho lắm, trong đó có cả tôi nữa.

Những người ấy, xin nói lại là trong đó có tôi, vẫn cứ lấn cấn thế nào ấy, với từ "giải phóng".

Sao lại lấn cấn nhỉ? Ừ thì về nghĩa của từ "giải phóng", chứ sao.

Giải phóng, nói vắn tắt là đem lại tự do. Có lẽ ngày ấy quả thật là đem lại tự do cho những người đã bị tù đày, bắt bớ vì theo cộng sản trước năm 1975 thật. Đối với những người ấy, quả là một thật ngày vui, vì là một ngày chiến thắng.

Nhưng với nhiều người dân miền Nam, trong đó có tôi, gia đình họ hàng tôi, và rất nhiều, thật nhiều người khác mà tôi biết - thực ra là toàn bộ những người tôi biết, thì ngày ấy không thể là một ngày vui được. Như cố thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có lần phát biểu. Hàng triệu người vui và hàng triệu người buồn.

Không thể vui, vì sau ngày ấy, bố tôi không còn việc làm; mẹ tôi không còn tự do buôn bán. Gia đình tôi - như rất nhiều người khác ở miền Nam lúc ấy - cũng không còn nguyên vẹn. Anh em bọn tôi không có quyền ưu tiên vào đại học, và cũng chẳng có ưu tiên nhận vào làm việc ở những cơ quan nhà nước (đồng nghĩa với thất nghiệp, nuôi heo, bán rau, đạp xích lô, bán chợ trời, hoặc đi vượt biên!) Bạn bè, thân quyến của tôi có nhiều người chọn con đường đi vượt biên, có người đến nơi nhưng cũng nhiều người bỏ mạng nơi biển cả mênh mông, những người ra đi với ý thức "một là con nuôi cá, hai là má nuôi con", nhưng vẫn quyết tâm ra đi không hẹn ngày trở lại ....

Cũng không thể vui, vì cuộc sống ngày càng đi xuống, phú quý giật lùi. Đồ đạc trong nhà đội nón ra đi, nào xe vespa, honda, tivi radio, bếp gas máy giặt, rồi cả tủ gỗ, giường gỗ nữa, cái gì có người mua (ai mua nhỉ?) thì đều đem bán sạch. Rồi bán hết đồ đạc thì chuyển sang nghề ... bán vàng. Nhà nhà bán vàng, người người bán vàng, nghề bán vàng trở thành một nghề phổ biến nhất vào thời ấy.

Cái gì, nói cái gì thế, nhà nhà làm nghề bán vàng ư? Ở đâu ra thế?

Thì từ từ rồi tôi giải thích: người ta lấy vàng dành dụm, tích cóp từ trước năm 1975 (dân ta có thói quen tiết kiệm bằng vàng mà lại), đem ra bán dần đi mà sống, và đó là nguồn thu nhập chủ yếu, vậy chẳng phải là làm nghề bán vàng sao? Có lý quá, đúng không?

Đấy, đối với tôi, dù muốn dù không, ngày hôm nay vẫn gợi lại cho tôi những ký ức như thế.

Những ký ức rời, vụn, nhòe nhoẹt, và không đẹp. Nhớ đêm 29 tháng 4, gia đình tôi lúc ấy ở trên đường Lê Văn Duyệt (nay là CMT8), đường tiến quân, đêm xe tăng đi rầm rập, và đạn pháo nổ thùm thụp liên tục cả đêm.

Nhớ sáng 30/4, mở cửa ra nhìn ra đường, tôi còn kịp thấy một người lính cộng hòa bị bắn rơi từ trên sân thượng của căn nhà trước mặt, rớt xuống đường. Và những xác người của một chuyến xe lam bị trúng pháo kích, nằm la liệt trên khúc đường Lê Văn Duyệt gần Ngã ba ông Tạ, cũng ngày 30/4 lịch sử ấy.

Nhớ trưa 30/4, sau khi nghe tuyên bố đầu hàng của Đại tướng Dương Văn Minh, mọi người vứt lá cờ vàng ba sọc đỏ ra đầy đường, và có những người chạy ra đường reo hò đón "quân giải phóng" (những người mà tôi đoán sau này đã trở thành "ông ba mươi" của thời ấy, lúc đất nước còn đang tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên CNXH, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng). Những lá cờ vàng ba sọc đỏ mà hàng tuần mọi công chức và học sinh đều nghiêm trang đứng chào vì đại diện cho một đất nước, một chính thể, trong ngày 30/4 ấy đã bị vất vương vãi trên đường như rác rưởi để cho những giòng người chạy ngược xuôi xéo lên.

Nhớ mẹ tôi đã lắc đầu, nhặt những lá cờ vàng nằm trước sân nhà tôi, đem vào trong nhà châm lửa, vừa đốt vừa lẩm bẩm: sao lại có thể làm như thế được? Và nhớ cũng lá cờ ấy của gia đình tôi thì bố tôi nghiêm trang gói vào trong giấy báo, rồi mới đem đi đốt. Nghiêm trang và im lặng, suy tư. Bố tôi, một công chức nhỏ của chế độ cũ.

Nhớ tối 30/4, bố tôi và mẹ tôi nghe radio (đài cách mạng!), nghe thông báo tất cả "ngụy quân, ngụy quyền" phải đến cơ quan trình diện, hai người thì thầm nói chuyện rất lâu trong bóng tối lờ mờ của một thành phố hình như đang bị cúp điện, một tâm trạng lo âu đè nặng đến ngột thở. Tôi lúc ấy chưa trọn 15 tuổi, chỉ hơn con gái của tôi hiện nay có 1 tuổi thôi. Nhưng cũng lờ mờ hiểu được một tương lai vô định đang chờ đợi cả gia đình...

Nhớ sau đó, gia đình dòng họ của tôi bắt đầu giai đoạn lo lắng triền miên, các bác, các chú rất nhiều người bắt đầu thời kỳ "đi học tập" mà mới đầu được thông báo là chỉ 3 ngày (mỗi người đem theo vật dụng cá nhân), mà sau đó thì trở thành một cuộc "tập trung" không biết ngày biết tháng, vì còn tùy thuộc vào "sự tiếp thu" của từng người khi "học tập".

"Học tập", ấy là uyển ngữ đầu tiên mà tôi nghe của chính quyền CM rất giàu uyển ngữ này, mà khi dịch sang tiếng Anh thì các thế lực thù địch chúng bảo là "concentration camp", y như trại tập trung của Đức Quốc Xã, láo thế! Tôi tự hỏi, chẳng hiểu trên thế giới sau khi thay đổi một chế độ, có nước nào có cách làm độc đáo như nước ta thời ấy không nhỉ?

Có thể ở các nước người ta sẽ xử tử và bỏ tù một số nhân vật chóp bu, có thể tạo ra scandal chính trị, gây shock, phẫn nộ, hay sợ hãi trong ít lâu. Nhưng rồi thôi. Còn việc "trừng phạt" theo kiểu cho chờ đợi mỏi mòn, lo lắng không yên trong một thời gian dài như thế, và với rất nhiều con người như thế chứ không phải chỉ là những người trực tiếp tham gia chính quyền cũ - để tạo ra tình trạng cha đi học tập, mẹ bán chợ trời, con đi vượt biên, hoặc thất học lang thang ... - trong đó có nhiều người cũng thuộc thành phần ưu tú, hoặc ít ra cũng là công dân tốt của chế độ trước, thì có lẽ đây là cách làm duy nhất chỉ có ở VN thì phải?

Và tôi tự nghĩ, phải chăng đó là một sai lầm ghê gớm về con người, một sự phí phạm vô cùng lớn lao sức mạnh đoàn kết, niềm tin và tài năng của một dân tộc? Phải có lúc nào các nhà lãnh đạo của ta nghĩ về việc này và trả lời cho mọi người chứ nhỉ? Như cố thủ tướng VVK đã từng làm.

Thực ra, tôi không muốn nhớ những điều này, vì nó chẳng hay ho gì. Nhưng ký ức về những việc có thật đó nó vẫn tự đến với tôi vào ngày này, và đòi hỏi tôi phải nói ra. Nói để cho các thế hệ sau cùng biết - và rút kinh nghiệm? - và nói, để những người chiến thắng hiểu được nửa bên kia của câu chuyện quê hương

Nói, để có thể một ngày nào đó, giống như TCS, "mong sẽ quên chuyện non nước mình".

Một ngày trên tổ quốc chung của mọi người Việt chúng ta với những anh em có tâm sự và tâm trạng giống như tôi, chưa kể là những người Việt đang lưu lạc khắp nơi trên thế giới, có nhiều người đã từng quay lại VN nhưng cũng có nhiều người khác không những tự mình hứa là sẽ không bao giờ về (trừ phi ...), mà còn cấm những người thân của mình không được về. Thì việc những người VN khác, những người anh em cùng một bào thai trăm trứng của mẹ Âu Cơ xem đó là "ngày giải phóng", "ngày chiến thắng", và ăn mừng "chiến công rực rõ" của mình, ngày "đất nước trọn niềm vui", liệu điều đó có nên không?

Cho nên tôi rất mong có lúc nào đó trong đời tôi (không còn dài nữa) được thấy ngày 30/4 được gọi bằng một tên gọi khác. Và những hành động khác để mừng ngày lễ ấy. Ví dụ, cầu siêu cho tất cả các nạn nhân trong cuộc chiến tranh tàn khốc ấy, không kể bên nào. Vì đều là người VN, da vàng máu đỏ.

Như TCS cũng đã nói dùm cho chúng ta từ rất lâu: "Người Việt nào da không vàng??Mẹ Việt nào nhớ xác con?"

Lại nhớ một câu khác của TCS: "Hôm nay hòa bình sao mắt mẹ chưa vui?"

Hôm nay ngày gì, vâng, hôm nay là ngày gì thế? Có vị lãnh đạo nào của đất nước này, những người VN giống như tôi, đang suy nghĩ những điều tương tự như tôi không nhỉ?

Thế mà người ta đang kêu gọi hòa giải, hòa hợp, yêu thương gì cơ đấy! Ở đây này.
---
Tình cờ đọc được entry này, thấy rất đồng cảm, nên đưa về đây để chung. Cám ơn bạn Hanwonders gì đấy đã nói hộ tôi và nhiều người khác nhé.

Thứ Sáu, 15 tháng 10, 2010

Sông kia rày đã nên đồng …

Tôi mới về từ trường ĐH Indo (Universitas Indonesia), còn rất mệt, và cũng có rất nhiều muốn nói. Nhưng sẽ cần một entry khác.

Còn entry này chỉ để ghi nhanh một cảm giác đã hình thành trong tôi một cách mơ hồ từ chuyến đi Indo, và khi về đến nhà lại được củng cố khi ông xã tôi nhắc đến một bài báo viết về những chuyến phà miền Tây mà giờ đây có lẽ đang đứng trước nguy cơ bị xóa sổ vĩnh viễn.

Tôi chưa đọc bài báo đó, vì mấy ngày qua không ở nhà và không đọc báo Việt (thì ở Indo mà lại). Nhưng chỉ mới cách đây hơn một tuần thôi, tôi cùng mấy em ở TT của tôi vừa đi qua phà Hàm Luông trong chuyến đi đến Trà Vinh. Và cũng có một cảm giác ngậm ngùi như vậy khi nhìn cảnh những chiếc phà nặng nề, chậm chạm nhưng kiên trì đảm đương nhiệm vụ làm chiếc cầu di động nối liền hai bờ. Vì nghĩ đến một ngày không xa, chúng sẽ không còn nữa, sau cả thế kỷ làm nhiệm vụ.

Nhưng phà của VN thì có liên quan gì đến Indo nhỉ? À, là bởi vì ở Jakarta, thủ đô của đất nước Indo với vài ngàn hòn đảo lớn nhỏ và hơn 200 triệu dân, một nước đang phát triển trong khu vực Đông Nam Á như VN, với GDP khoảng 5000 USD (gấp hơn 4 lần của VN thì phải), mặc dù cũng đang trong quá trình phát triển, đô thị hóa và toàn cầu hóa, nhưng đi đâu tôi cũng thấy được dấu ấn của truyền thống, của lịch sử Indo.

Cả trong kiến trúc, trong trang phục, lẫn trong tâm thức của mỗi người.

Những mái ngói rất đặc trưng chất Indo ngay tại sân bay Jakarta, những building độc đáo trong trường đại học Indo, những bộ trang phục truyền thống của vị hiệu trưởng và các vị lãnh đạo, quản lý cấp khoa, bộ môn của trường này.

Tóm lại, họ đang hiện đại hóa, nhưng truyền thống vẫn không hề mất.

Nhưng ấn tượng nhất là khi tôi tiếp xúc và trao đổi với các em sinh viên, các giảng viên, và những nhà tuyển dụng có sử dụng sinh viên tốt nghiệp của Bộ môn Kiến trúc (Department of Architecture) thuộc Khoa Công trình (Faculty of Engineering) của UI, thì tôi mới thực sự cảm nhận được cái tâm thức bảo vệ môi trường và bảo vệ truyền thống của người Indo.

Những mô hình thiết kế của các em sinh viên thật độc đáo với tre, nứa, giấy bồi, và kiểu dáng phát huy những nét đẹp của những kiến trúc truyền thống, kết hợp với những đường nét hiện đại. Và cả ý tưởng về một cây cầu lãng mạn với nét thẳng mạnh mẽ chui qua một vòm cổng cong cong duyên dáng, mà vị hiệu trưởng giải thích là nó biểu trưng cho linga và yoni. Hiện đại kết hợp với truyền thống.

Còn VN, hình như chúng ta không có thói quen trân trọng và lưu giữ những gì vốn là truyền thống thì phải? Thay đổi thì đúng là tất yếu, nhưng giữ lại những hình ảnh truyền thống để tạo nên một sự gắn kết giữa quá khứ và hiện tại, chẳng phải điều đó cũng rất cần để tạo nên chiều sâu tâm hồn của từng con người và của cả dân tộc hay sao?

Có phải vì chúng ta phá hủy hết cả, nên từ thế kỷ trước Tú Xương mới có bài thơ Sông Lấp nổi tiếng hay chăng?

Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai.
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò …


Buồn quá, phải không? Dường như tốc độ “biển xanh biến thành ruộng dâu” tại VN hiện nay ngày càng gia tăng thì phải.

Chợt nhớ cách đây khoảng 20 năm (đầu thập niên 1990), ở nhà tôi vẫn thường nghe được tiếng còi xe lửa “xình xịch xình xịch xình xịch uuuuuuuuuuuuu” từ xa xa vọng lại vào mỗi tối, buồn buồn, gợi nhớ một cái gì xa xăm. Tiếng còi tàu ấy giờ đây không còn nữa.

Còn bây giờ, ở miền Tây đang mất dần đi những tiếng phà.

Phà ơi! Phà ơi!

Còn đây nữa, bài thơ Sông Lấp của thời nay. Lại thêm một người hoài cổ.

Chủ Nhật, 4 tháng 7, 2010

Tôi sợ tôi như sợ người khùng trí ...

Lại là một câu trong một bài thơ đã nằm trong trí nhớ dài hạn của tôi, và không rõ tác giả. Tôi biết bài thơ này khoảng năm 1974-1975, lúc ấy tôi 14-15 tuổi.

Xin lạc đề ở đây một chút: giống như bất kỳ một người VN nào khác của thời ấy (và có lẽ cả của bây giờ nữa), tôi không có thói quen nhớ tên tác giả, mà chỉ nhớ những câu thơ hay mà thôi. Biết là nó không phải của mình, nhưng nó của ai thì ... cảm thấy không cần biết? Chẳng hiểu tại sao thế nhỉ? Nền giáo dục của ta không dạy cho chúng ta thói quen tôn trọng sở hữu trí tuệ ngay từ bé, nên lớn lên, nếu có đạo văn, đạo nhạc, luộc sách ... thì có gì là lạ đâu kia chứ?

Quay trở lại bài thơ. Tôi chợt nhớ đến bài thơ này sau rất nhiều năm không nhớ đến nó khi tôi đọc được bài thơ Phố Phái của Nguyễn Việt Chiến đăng trên tờ Thanh Niên hôm nay ngày 4/7/2010. À mà này, ngày hôm nay là July 4th, quốc khánh Mỹ đấy nhé! Xin chúc mừng nước Mỹ, miền đất của tự do (kể cả tự do bán ... bằng giả!)

Bài thơ Phố Phái của NVC mở đầu như sau: Mùa đông chim sẻ phố bay rồi. Và chính câu thơ này đã là chiếc chìa khóa mở ngăn tủ ký ức nơi tôi cất giữ bài thơ mà tôi muốn chép lại ở đây cho tôi và mọi người, vì bài thơ ấy cũng bắt đầu hao hao như thế: Trời mùa đông chim én lạnh lùng bay....

Vâng, trời mùa đông ... Trời mùa thu ... Trời Sài Gòn đang như là vào thu, lành lạnh, bầu trời hơi âm u và nằng nặng hơi nước. Rất lạ và rất hiếm hoi với một thành phố ồn ào, náo nhiệt, nóng nực và bụi bặm, và lúc nào cũng nắng gay gắt, năng lượng mặt trời lúc nào cũng dồi dào đến độ dư sức cung cấp điện cho mọi gia đình trong sinh hoạt hàng ngày để nấu cơm, giặt giũ, tắm rửa ..., tôi nghĩ thế.

Lá vàng, hình do Ba8 cung cấp.
Đưa hình vào entry theo yêu cầu của Khuê.


Lẩn thẩn tự hỏi, vì cớ làm sao mà chẳng có ai nghĩ đến việc khai thác nguồn năng lượng này để đỡ thiếu điện, cắt điện tùm lum như thế này, tôi thực sự không hiểu. Có phải tại độc quyền chăng? Cái này, xin thôi không bàn thêm nữa, nó làm ... loãng và xấu blog này, vốn là nơi trú ẩn của tôi (và một vài thân hữu, chắc là thế). Vì chính trị và thơ có bao giờ đi được với nhau, trừ phi bạn là một "nhân tài" như Tố Hữu. Hoặc, ở một tầm thấp hơn nhiều về chính trị, là Trần Đăng Khoa.

Thôi, lan man thế đủ rồi. Bài thơ mà tôi muốn nói đến, nó ở dưới đây, chép theo trí nhớ không hoàn hảo và nghịch thường của tôi, xin mọi người thưởng thức. Và có ai nhớ tên tác giả thì xin cung cấp cho tôi với!

Nếu biết xa rồi
Trời mùa đông chim én lạnh lùng bay
Tôi đứng đó nghe ngày vui chợt tắt
Chiều thị trấn chưa vàng lên màu mắt
Sao người quên, cho nhung nhớ thêm dài?

Tôi sợ tôi như sợ người khùng trí
Không nhìn đời bằng ánh mắt nhung xanh
Trong giây phút chợt nghe hồn ngã quỵ
Tuổi tên ơi, có vỡ nát tan tành?

Trời Phong Điền chim còn bay cánh lả
Hãy về đây cho tôi ước mơ ngà
Đừng chờ mùa xuân mai vàng chín rụng
Khi linh hồn và giấc ngủ lung lay.

Và tất cả đã không còn gì nữa
Trả cho người ngày cũ để tìm quên
Dù ngày vui, dù cuộc đời chưa hết
Nhưng vết hằn đà chia cắt tuổi tên.

Thì mùa đông loài chim nào không bay?
Đã ngủ vùi chưa trong giấc mơ dài?
Người đã quên tôi, buồn lên tóc rối
Một phương trời, và cuộc sống phân hai.


Bài thơ rất hay, phải không? Với tôi, nó hay trước hết là vì nhạc điệu, trầm trầm buồn buồn. Nhìn lại bài thơ bằng con mắt "kỹ thuật" một chút, bài thơ này sử dụng đa số các từ vần bằng ở tất cả các câu cuối mỗi khổ thơ: Sao người quên, cho nhung nhớ thêm dài? (7/8 từ là vần bằng) Tuổi tên ơi, có vỡ nát tan tành? (5/8) Khi linh hồn và giấc ngủ lung lay. (6/8) Nhưng vết hằn đà chia cắt tuổi tên. (5/8) Một phương trời, và cuộc sống phân hai. (5/8) Hay lắm, như những câu nói buông lửng, buồn buồn của những cặp tình nhân khi phải lìa xa.

Chợt nhớ những câu thơ, khổ thơ sử dụng đa số vần bằng cũng rất hay của các nhà thơ tiền chiến: (Hồn lính mơ qua vài sợi tóc)/Tôi thương mà em đâu có hay? (6/7)(Quang Dũng) Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi (5/7)/Tôi mê Ly Cơ hình nhịp nhàng (6/7)/Tôi tưởng tôi là Đường Minh Hoàng (6/7)/Trong cung nhớ nàng Dương Quý Phi (5/7). (Xuân Diệu, hình như thế).

Những câu thơ tình, đầy tình cảm lãng mạn được chở bằng cách nói ý nhị, không thẳng thừng sống sượng như thời nay. Ấy là tôi nghĩ thế, chứ chắc thế hệ 8x, 9x thời nay sẽ nghĩ khác: Nói gì thì nói đại ra cho rồi, lòng vòng ấp úng mãi, mệt quá!

Ừ, mệt thật chứ! Đôi khi đọc lại những entry của mình, tôi cũng thấy tôi dài dòng, lòng vòng, lẩn thẩn, lăng nhăng, linh tinh thật đấy. Như một cụ già, nói năng dây cà ra dây muống. Chẳng hề quan tâm đến độc giả, viết tiểu luận môn học như thế này thì chắc chắn là bị ăn con 'zero' tròn trĩnh, thật vậy!

Nhưng có hề gì, tôi viết cho tôi thôi mà? Âu cũng là một thú tiêu khiển. Ai tìm được chút kỷ niệm, chút hương vị quê nhà, chút lạ lẫm, hoặc một chút mình trong các entry của tôi, thì tôi sẽ rất vui. Bằng không, nó chỉ là một mảnh đất con con với đầy cây cỏ dại của tâm hồn tôi, để dành riêng cho tôi, mà thôi.

Lại nhớ 2 câu thơ này của Xuân Diệu:

Lòng tôi đó một vườn hoa cháy nắng
Xin lòng người mở cửa ngó lòng tôi.

Thứ Tư, 30 tháng 6, 2010

À, có vì sao sầu ...

Chỉ là một câu trong một bài thơ thời trước năm 1975 mà chị tôi đã chép trong những tập thơ chép tay hồi chị ấy 19-20 tuổi, học năm thứ nhất Văn Khoa, còn tôi thì 14-15 tuổi, học lớp 9, tò mò đọc lén, rồi thuộc. Chẳng nhớ tác giả là ai. Chép lên đây cho những những người yêu thơ cùng đọc.

Đêm quán vắng

Còn đây, còn đây em
Quán xưa mình hò hẹn
Bây giờ, bây giờ em
Một mình anh hiện diện.

Em về đâu, về đâu
Con sông nào ngăn cách?
Tình xưa giờ nát nhàu
Như những tờ thư rách.

Quán về khuya vắng quá
Ngọn đèn khuya lặng im
Gió về rung cành lá
Gió se lạnh trái tim.

Bên tay này nỗi sầu
Lên cao như khói thuốc
Bên tay kia niềm đau
Như vành ly sủi bọt.

Anh có thấy gì đâu
Trên cánh đồng sao đó?
À, có vì sao sầu
Thật mờ và thật nhỏ.

Xin em về đêm nay
Dù chỉ trong trí nhớ
Xin em về đêm mai
Dù chỉ trong giấc ngủ.

Tại sao hôm nay tôi lại nhớ bài thơ này? Vì hôm nay tôi mới gặp lại một người bạn cũ cùng học với tôi ở đại học, cách đây đã hơn 30 năm rồi. Cũng là Văn Khoa, nhưng lúc ấy đã được nhập chung với ĐH Khoa học để trở thành ĐH Tổng hợp. Bọn tôi vào đại học năm 1978, năm mà đất nước "chưa yên vui cho trọn ngày, áo lính lại khoác vào ngay" - khi ở biên giới Tây Nam có chiến tranh với Campuchea, và sau đó ít lâu là chiến tranh biên giới phía Bắc.

Vậy đó, mà chẳng hiểu sao thời đó đám sinh viên Văn Khoa bọn tôi vẫn rất lãng mạn, đển là ... đáng tội nghiệp! Tôi nhớ, lúc ấy bọn tôi đi học vẫn còn chất "scholar" lắm. Vẫn nhớ sân trường Văn Khoa với những cây ngọc lan thơm ngát vào mùa mưa. Bọn tôi 18, 19 tuổi, mà sao thấy mình lớn lắm rồi, và thấy mình phải có trách nhiệm với xã hội. Làm gì có chuyện đánh nhau, quay phim tung lên mạng, bạo lực học đường như bây giờ? Mà là một thế hệ trẻ rất khác với thế hệ ngày nay: ít thực dụng hơn, nhiều lý tưởng hơn (có lẽ cũng dễ bị lừa hơn?), hăng máu hơn, và ... lãng mạn hơn.

Nên mới có chỗ cho những bài thơ như thế này. Tôi nhớ, đã đọc nó vào một buổi tối trong dịp bọn tôi đi học quân sự ở trên Thủ Đức. Buổi tối, mọi người hay rủ nhau đi ăn chè, cũng là để có thêm chất, vì thời đó ăn cơm tập thể rất thiếu chất: toàn là canh toàn quốc (= toàn nước), "chạy qua hàng thịt" (= rất ít thịt, một 2 lát mỏng dính làm vì thôi), và rất nhiều món "không người lái" (= món chay, không có thịt, chỉ có rau). Một buổi tối trời thật tối, và bầu trời đầy sao.

Tức cảnh sinh tình, tôi lẩm bẩm đọc câu thơ ấy, cái câu mà tôi lấy làm tựa của entry này ấy. Cô bạn cùng lớp tôi (không thân lắm), người Huế, chắc là cũng lãng mạn còn hơn tôi, chẳng hiểu sao nghe được, và yêu cầu tôi đọc cả bài. Và tôi đọc, cũng chẳng ngờ rằng mình còn thuộc. Bài thơ mà tôi đã chép trên đây cho các bạn đọc ấy.

Chỉ có vậy thôi, lẩn thẩn một chút ký ức. Và một chút buồn buồn, chút tiếc nuối một thời đã qua. Có một cái gì đó đã mất đi, cùng với sự phát triển nóng ngày nay, hình như thế.

Có phải chúng ta đã "đổ em bé đi cùng với nước tắm" không nhỉ?

Thứ Hai, 24 tháng 5, 2010

"Một thế kỷ, mấy vần thơ"

Entry này tôi bắt đầu viết vào dịp 30/4, nhưng rồi bỏ dở dang. Nay đọc lại bài viết của BS Hồ Hải trên blog của ông về cuộc chiến tranh VN trước năm 1975, lại nhớ đến entry này, nên lấy ra viết tiếp.

Chẳng hiểu tại sao đọc bài viết về quá khứ trước 1975 của BS Hồ Hải tôi lại nhớ đến bài thơ nhỉ? Cũng có thể nó liên quan đến tâm lý "dân tộc" của người miền Nam mà chính tôi trong bao nhiêu năm nay cũng chưa nhìn ra hết? Không biết nữa, thôi thì cứ ghi ra đây để có cái mà đọc lại và tiếp tục suy nghĩ.

----
Cách đây ít lâu tôi có viết entry "Tôi sắp già rồi!", nói lên tâm trạng gần đây của tôi, biết rằng mình sắp già (đang già, đã già?).

Trong entry đó tôi có nhận xét rằng sao dạo này tôi hay quên quá, toàn quên chuyện hiện tại và nhớ những chuyện cũ tận đẩu tận đâu. Một người bạn không biết mặt của thế giới ảo (nhưng đối với tôi có khi còn thật hơn thế giới thật) cho biết, hiện tượng đó gọi là "trí nhớ nghịch thường" (paradoxical memory?). Một biểu hiện rõ rệt của tuổi già, hình như thế?

Chao ôi, nếu thế thì ... tôi nguy to rồi! Vì mặc dù chưa đến độ vừa ăn cơm xong lại trách con cháu sao không cho mình ăn cơm, nhưng sao lúc này tôi lại nhớ nhiều chuyện xa xưa đến thế? Hay là tại gần 30/4?

30/4/1975, một mốc lịch sử quan trọng của cả nước. Với rất nhiều kỷ niệm cho nhiều người. Tôi nghĩ, dù ai ở phía bên nào của cuộc chiến thì cũng mừng vì cuộc chiến đó chấm dứt. Tiếc rằng ngay sau cuộc chiến ấy, có nhiều việc đã không được giải quyết một cách tốt đẹp hơn.

Tất nhiên, mọi việc xảy ra thì cũng đã xảy ra rồi. The damage is done, and it's no use crying over the spilt milk. Nhưng nhớ lại, và nhắc lại, để rút ra những bài học lịch sử cho mỗi cá nhân, và cho cả dân tộc, tưởng cũng là điều nên làm.

Đó là lý do tại sao tôi đang chép lại bài thơ này. Bài thơ mà tôi đã đọc trong mấy năm đầu sau 1975. Và cũng như nhiều bài thơ mà tôi cho là thơ hay khác, tôi chỉ cần đọc một vài lần, rồi nhớ gần hết.

Bài thơ ấy là bài "Một thế kỷ, mấy vần thơ" của Truy Phong. Một bài thơ mà tôi chẳng bao giờ được học, cũng ít khi nghe nhắc đến, nhưng thực sự đối với tôi là rất hay, rất đáng khâm phục, và nó cũng cho những người như tôi hiểu thêm ít nhiều về khía cạnh nhân văn của những vấn đề lịch sử và chính trị của dân tộc Việt.

Trước khi chép bài thơ này thì tôi muốn kể lại "hoàn cảnh" tại sao tôi lại tiếp xúc được với bài thơ này. Lúc ấy là sau ngày 30/4/1975, mẹ tôi vẫn còn cửa hàng tạp hóa chợ Ông Tạ (vốn đã có từ trước năm 1975). Hồi ấy, không hiểu sao giấy rất hiếm, và cửa tiệm của mẹ tôi lúc ấy có mua bán giấy vụn (giấy tập, giấy sách báo cũ ...) để làm giấy gói hàng, hoặc bán lại cho "đầu nậu" thu gom để bán cho nhà máy làm giấy.

Một trong những thói quen đáng quý của mẹ tôi là dù cho có được mua như giấy vụn, thì tất cả mọi loại sách báo hoặc giấy tờ có in hoặc viết chữ đến tay mẹ tôi thì bà phải mở ra đọc qua cho bằng được trước khi bỏ đi. Cũng chính vì sự cẩn thận này mà tôi mới có cơ hội đi học đại học, bằng không thì ngày nay số phận tôi đã khác lắm rồi (nhưng biết đâu lại tốt hơn cho tôi nhỉ?).

Lạc đề, nhưng vẫn phải kể, vì câu chuyện tôi sắp kể theo tôi là rất ly kỳ. Hồi tôi thi đại học năm 1978, với cái cách xét lý lịch để cho vào đại học như thời đó thì tôi và cả nhà tôi nghĩ rằng mình ... thi để cho có thi thôi, chứ chắc chắn là rớt rồi.

Nên đi thi xong là tôi bắt đầu tìm việc lặt vặt để làm, còn mẹ tôi thì cũng chuẩn bị tinh thần tìm thêm công việc buôn bán ở chợ cho tôi. Và không hề theo dõi kết quả thi cử gì cả. Mà thời đó kết quả không được dán lên hay đăng báo công khai như bây giờ đâu, chỉ lẳng lặng gửi đến địa chỉ từng người mà thôi. Ai đậu, ai rớt thì cũng lặng lẽ biết, nếu không nói ra thì không ai biết được.

Khi thư báo kết quả được gửi đến cho tôi thì nó lại đến vào thời điểm không có ai nhận thư, người đưa thư bèn nhét vào khe cửa (tôi ghi địa chỉ tiệm buôn, vì hộ khẩu của tôi lúc đó được đăng ký ở đó, còn gia đình tôi thì có hộ khẩu ở nơi khác, gần đó). Khi mẹ tôi mở cửa vào nhà thì vô tình dẵm lên bao thư đang nằm dưới đất, nên nó lấm lem.

Sau khi dọn hàng xong, ngồi rảnh mẹ tôi mới nhìn thấy bì thư lấm lem đó, và đã định quăng vào sọt rác rồi. Nhưng với cái tính rất cẩn thận của mình, mẹ tôi lại cầm lên xem, và thấy ghi tên tôi, có đóng dấu trường ĐH Tổng hợp. Bà bèn mở ra xem, và thấy đó là giấy báo đi khám sức khỏe để nhập học, vậy là tôi thi đậu! Nếu hồi đó mà bà không mở ra thì tôi cũng chẳng biết đường nào mà hỏi, và thế là chấp nhận không đi học, thật vậy!

Trở lại bài thơ. Nó nằm trong một tạp chí cũ, chẳng hiểu tên là tờ gì, chỉ còn vài trang, và cũng không trọn bài thơ vì bị rách mất một phần ở giữa. Cũng là mẹ tôi phát hiện ra nó, bà đọc, rất xúc động, và đưa cho tôi xem. Dù không còn nguyên vẹn, nhưng nó vẫn còn được cái tựa, tên tác giả, và gần trọn bài thơ.

Một bài thơ mà tôi cũng đồng ý với mẹ tôi là rất hay. Bi tráng, hào hùng, phẫn nộ với những tội ác của kẻ thù, nhưng cũng không thiếu sự nhân hậu, khoan dung với những người thua trận. Toàn bài ấy, có thể đọc ở đây (tôi mới tìm ra trên mạng gần đây thôi - quả thật, mạng Internet đúng là một phát kiến quá vĩ đại của thời đại chúng ta).

Còn dưới đây là một vài đoạn trích, tôi chép ra từ trí nhớ:

Một thế kỷ, mấy vần thơ

Ánh hồng chói rạng chân trời mới
Ngọn lửa đao binh tắt lịm rồi
Có kẻ chiều nay về cố quán
Âm thầm không biết hận hay vui

Chiều nay...
Kèn kêu tức tưởi nghẹn lời
Tiếng ngân xúc động dạ người viễn chinh
Chiều nay trên nghĩa địa
Có một đoàn tinh binh
Cờ rủ và súng xếp
Cúi đầu và lặng thinh ...

Nghẹn ngào vĩnh biệt người thiên cổ
Đất lạ trời xa sớm bỏ mình
Thịt nát xương tan hồn thảm bại
Nghìn thu ôm hận cõi u minh

Những ai làm lính viễn chinh
Chiều nay bước xuống tàu binh trở về ...

Tàu xúp-lê, tàu xúp-lê
Cửa Hàm Tử lao xao sóng gợn
Bến Bạch Đằng lởn vởn hồn quê
Bước đi những bước nặng nề
Ngày đi chẳng biết ngày về chẳng hay...


Hay khúc giữa:

Nhưng thôi, bao năm khói lửa
Ta hiểu nhau rồi
Cái gì bạo ngược và phi nghĩa
Là trái lòng dân, nghịch ý trời

Sắt thép tinh ròng, binh tướng dữ
Không sao thắng nổi trái tim người

Anh về là phải anh ơi
Về bây giờ để cho đời nhớ anh
Những cái gì tôi ghét
Những cái gì tôi khinh
Bây giờ anh xuống tàu binh
Trăm năm chuyện cũ, thôi mình bỏ qua...

[...]

Tôi nhớ lắm một ngày năm tám chín (1789)
Anh vùng lên phá ngục Bat-ti nhà (Bastille)
Anh giải phóng cho dân anh được sống
Được vinh quang trong "Đệ tứ cộng hòa"!
Anh vui, anh sướng
Anh hát, anh ca...
Tôi là người ở phương xa
Ngày anh xán lạn cũng hòa niềm vui!

Anh về nước Pháp xa xôi
Chắc anh làm sao quên được,
Những là đường đi nước bước
Những là tên tuổi Việt Nam:
Suối Yên Thế tuôn tràn hậm hực,
Đất Thái Nguyên căm tức nổi vồng.
Tháp Mười hận nước mênh mông
U Minh mấy trận bão lòng chưa nguôi!


Và đoạn cuối cùng

Đã đến giờ
Chia tay cách biệt
Anh rời đất Việt
Vừa tủi vừa mừng
Bên nhà vợ đợi con trông,
Vắng anh, tình mặn nghĩa nồng cũng phai...

Tàu xúp lê một!
Tàu xúp lê hai!
Tiễn chân anh nhé, anh về nước
Biển lặng trời êm nhớ lấy ngày.
Và chẳng bao giờ quên nhắc nhở
Cho ai đừng đến đọa đày ai!

Bóng ngả trời tây
Gió lồng biển cả...
Phút giây từ giã, trang sử trăm năm
Tàu anh rời bến Việt Nam,
Hãy xuôi một ngả, một đường mà đi.

Xin tàu đừng ghé Bắc Phi,
Sóng to gió lớn chắc gì đến nơi.
Đừng gây oan trái, tàu ơi,
Hãy xuôi về Pháp cho người hát ca!

Tàu xúp lê hai!
Tàu xúp lê ba!
Anh về mạnh giỏi
- Ô rờ voa! (Au revoir)

---
Tôi viết nốt và kết thúc bài viết này ở trong khách sạn một mình trên đất Singapore trong chuyến đi công tác cực ngắn (2 đêm, 3 ngày) của tôi. Không hiểu sao bài viết này tôi viết mãi mà không xong, bắt đầu từ trước 30/4, viết đi viết lại đến 2, 3 lần, mà đến nay kết thúc vẫn chưa thấy thỏa mãn, như chưa nói hết điều muốn nói.

Mọi người đọc thêm về bài thơ này ở đâyở đây. Còn tôi, tôi thấy mình còn nhiều điều muốn nói, mà sao không thể tìm được lời để nói?

"Như truyện đã viết xong, mà lòng vẫn còn muốn nói thêm"...

Thôi thì đành kết thúc entry này ở đây vậy. Để lưu lại cho chính mình, và cho gia đình, anh chị em, các con, và bạn bè tôi.

Một dân tộc với một lịch sử quá đau khổ, chiến tranh, mất mát. Bao giờ ta được như Singapore, mọi người ơi?

Thứ Tư, 5 tháng 5, 2010

Nửa vòng trái đất ...

Hình gia đình một người bạn - đúng hơn là 2 người bạn vì cả 2 đều là bạn học cùng lớp - hiện đang ở xa tôi nửa vòng trái đất
---
Cái tựa của entry này đã nằm trong đầu tôi từ cả tuần nay rồi.

Chẳng là hôm 30/4, được nghỉ một kỳ nghỉ dài, tôi ở nhà đọc sách, đọc báo chán rồi ngồi nghĩ miên man lẩn thẩn, không hiểu sao lại "xuất thần" viết luôn một mạch cái entry với cái tựa trích lời Cố TTg VVK: "Một triệu người vui và một triệu người buồn." Ở đây.

Tưởng chỉ viết riêng cho mình thế thôi, không ngờ cũng được một vài người đồng cảm. Đặc biệt là có chị Phương Khanh nào đó, hơn tôi 3 tuổi (bằng tuổi ông xã PA, chị Khanh ạ) còn gửi một comment khá xúc động, bắt đầu bằng mấy từ "từ nửa vòng trái đất"...

Và thế là cái trí nhớ nghịch thường của tôi lại bắt đầu làm việc. Vì tôi đã từng làm một bài thơ rất dài, bắt đầu bằng câu "Bây giờ, giữa bạn và tôi/Khoảng cách là nửa vòng trái đất" (nghe hay hông?).

Một bài thơ tôi viết từ năm 1980, lúc ấy tôi đang học năm thứ 2 ở ĐH Tổng hợp, Khoa Ngữ văn nước ngoài. Mà trời ơi, lúc ấy tôi 20 tuổi mọi người ơi, có ai tin được không chứ? Tôi, bà già 50 tuổi này, đã từng có lúc 20 tuổi, tuổi thanh xuân phơi phới như vậy sao? Hèn gì mà ... quý dzị đọc tiếp đi rồi sẽ biết!

Lúc ấy, "ta đang mùa ... vượt biên" (!) (nhại câu đầu bài hát "Anh đang mùa hành quân"), tôi lại học lớp Anh văn, nên hàng ngày vào lớp thấy lại bớt đi vài bạn, một thầy, "đi rồi". Có khi, ít lâu sau lại thấy người về từ ... trại cải tạo, mặt mày đen thui xấu xí do đi không thoát. Tôi nhớ có một cô giáo nghe đồn đi nhiều lần, lâu lâu lại nghỉ không đi dạy, do đang "ém quân" ở một nơi nào đó, rồi chắc là bị "động" nên chưa đi được, lại về đi dạy, rồi lại đi, miết rồi cuối cùng cũng đi được. Nói thêm, những người cùng lớp/cùng khóa của tôi đi từ thời ấy (đã 30 năm), có những người giờ đây rất thành đạt, con cái học hành nghiêm chỉnh, đóng góp vào đội ngũ trí thức Việt kiều làm rạng danh cho dân tộc Việt.

Còn tôi, như tuyệt đại đa số người VN, vì nhiều lý do, nhát sợ không dám thí mạng cùi hoặc không tiền để đóng cho "những người tổ chức vượt biên trái phép" cũng có (chắc là ít), yêu nước cũng có (hy vọng là nhiều), đã ở lại trên đất nước này, đóng góp và xây dựng nó (nhiều ít tùy tâm huyết, năng lực, điều kiện chủ quan và khách quan) để cho nó thành đất nước VN ngày nay. Cũng ... tự hào lắm chứ, với những thành tựu vượt bậc, từ một nước thiếu ăn phải nhờ tiếp tế của thế giới (chủ yếu các nước XHCN anh em, và hình như khối Bắc Âu trung lập), vươn lên thành một nước xuất khẩu gạo có hạng trên thế giới (hình như hạng hai, chỉ thua Thái Lan?).

Tất nhiên là vẫn có những người trách, tại sao trước đây miền Nam không đói (vựa lúa của cả nước), mà làm sao sau ngày thống nhất thì kinh tế lại đi xuống như vậy. Well, we all live and learn mà! Mặc dù cái giá phải trả cũng hơi ... đắt, thật vậy!

Chậc, dài dòng quá. Tính tôi thế, chắc là của dân arts, nói năng lòng thòng, dây cà ra dây muống ... Thực sự, ở đây tôi chỉ muốn chép lại một bài thơ mà tôi đã làm vào năm 1980, khi những người bạn thân nhất cứ từng người, từng người "bỏ ta đi như những giòng sông nhỏ". Có cả những người đi, "đi mãi bỏ trời mơ", chỉ đi mà không có đến, như biến vào hư không, từ ngày nói lời từ giã bạn bè .... Tôi sợ ma, nhức đầu, bị bóng đè, vv cũng là khoảng thời gian ấy đấy.

Bài thơ đã được tôi làm một mạch khi nghe tin một người bạn rất thân từ thời trung học (Gia Long) đã đi ít lâu mà không nghe tin tức gì, nay biết được đã đến Pháp an toàn. Bài thơ ấy, lúc đó tôi gửi đăng báo lớp (báo tường thôi), nay cũng chẳng nhớ là nó có được đăng không, nhưng theo tôi nó là một trong những bài tôi làm mà có nhiều xúc động nhất, và là cảm xúc thật chứ không cương một chút nào. Cũng có thể nó hơi ấu trĩ (?), và phản ảnh những gì tôi được nghe, được "nhồi nhét" vào đầu trong thời gian đó, nhưng nó vẫn là cảm xúc thật vào thời điểm ấy.

Xin chép lại theo trí nhớ dưới đây (thời đó kém thật, tôi chẳng ghi lại, cũng chẳng có blog mà post lên để mọi người cùng đọc, chỉ viết viết xóa xóa, xong bản hoàn chỉnh thì đưa cho lớp trưởng, độc có một bản, nếu cần thì chép lại từ trí nhớ, bây giờ đã qua 30 năm rồi lên chỉ còn lõm bõm vài câu, thật là tiếc!) Bài thơ này tôi cũng chẳng nhớ là có tựa hay không, đành chép chút đầu chút đuôi không khúc giữa như dưới đây.

Bây giờ, giữa bạn và tôi
Khoảng cách là nửa vòng trái đất
Khi mặt trời ở nơi bạn tắt
Thì nơi đây, một ngày mới bắt đầu
Lại những lo âu
Thiếu thốn
Manh áo, hạt cơm ...
Cọng rau, chén thuốc ...
Chắc bạn đã gặp điều mong ước
Một cuộc sống văn minh
Phố thị thênh thang, đèn điện sáng trưng

Liệu bạn đã gặp chưa, hạnh phúc?

Ôi, hạnh phúc là gì?
Ai không mong được một lần chạm đến
Dù chẳng thể trả lời chính xác
Hạnh phúc ơi ...
Tìm người ở đâu?

Bây giờ, tôi ở đây...

(khổ ơi là khổ, khúc giữa này tôi tả những cái khó khăn hàng ngày của thời đó, mà bây giờ quên tuốt luốt hết rồi!!! giả thuyết: có lẽ khúc giữa này viết ít xúc động, chỉ mang tính liệt kê bằng văn vần thôi, tức là ... vè ấy, nên giờ quên béng đi rồi. Nên thôi, ta tự ý đục bỏ nó đi nhé, và nhảy sang khúc cuối).

Tôi vẫn yên lòng với cuộc sống ở đây
Vẫn vất vả chắt chiu
Cơm rau ngày hai bữa
Lo thuốc cho mẹ già,
Lo em thơ thiếu sữa
Vẫn mong chờ đến một ngày mai
Vâng, ngày mai
Trời sẽ sáng ...

Những vất vả hôm nay
Là từng giọt mồ hôi tưới xuống
Để ngày mai đồng lúa trổ bông vàng.


Giải thích một chút:

- Khổ thơ đầu tiên: Tôi nhớ hình như hồi đó ở VN còn cúp điện nhiều lắm! Chưa có, hay đang hô hào làm thủy điện Trị An thì phải. Nên trong khổ thơ này tôi có viết về đèn điện sáng trưng như một biểu hiện của văn minh, của hạnh phúc. Khốn khổ thế đấy các bạn ạ.

- Khổ thơ gần cuối cùng: cái dzụ cơm rau ngày 2 bữa tôi viết trong khổ thơ này là thật đó quý dzị ơi, hồi ấy nếu ai sống ở SG chắc phải biết câu diễu: "người Sài Gòn khoái ăn sang" - tức là sáng ăn khoai ấy, có ai còn nhớ không?

Tôi viết đến đây mà thấy mình vẫn còn bồi hồi xúc động. Phải mở ngoặc nói thêm một chút: Ý tưởng của mấy câu cuối cùng cũng chẳng phải của tôi, mà là "mượn tạm" trong Kinh Thánh, cụ thể thì không nhớ, nhưng có bài hát về các thánh tử đạo với mấy câu như sau: "Người đi trong nước mắt ôm hạt giống gieo trên ruộng đồng/Người về miệng vui ca tay ôm bó lúa ngào ngạt hương". Ai là người Công giáo chắc là sẽ biết bài hát đó.

Đấy, cảm xúc thật của một thời. Ghi lại cho tôi, cho bạn bè còn đang ở VN, ở miền Nam giống như tôi, cho những người cùng thời ở "bên kia chiến tuyến" (tưởng tượng) như bạn Thanh Chung ở Hà Nội, cho anh chị em tôi và bạn bè tôi, người đã biết và người chưa biết, đang ở xa tôi nửa vòng trái đất.

Viết như thế, để hy vọng rằng chúng ta đang
Lại gần, gần lại với nhau
Ngồi gần nhau hơn, ngồi kề bên nhau

Như TCS đã từng kêu gọi từ thuở nào. Được không, mọi người ơi?

Chủ Nhật, 2 tháng 5, 2010

Trí nhớ nghịch thường

Cái trí nhớ gì mà nghe kỳ cục quá phải không? Tôi mới học được từ này của một người bạn trong thế giới ảo, bác sĩ đàng hoàng, có tên tuổi hẳn hoi nhưng tôi hoàn toàn không biết mặt. Mặc dù vậy, vẫn cứ nhận là bạn, vì ... thấy người sang bắt quàng làm bạn mà lại.

Tôi nghe về cái trí nhớ lạ lùng này từ hôm tôi viết entry "Tôi đã già rồi", ở đây. Cụm từ kỳ cục đó, nó mô tả trí nhớ của chính tôi, một "lão niên" nhưng mà thuộc loại trẻ vì mới ở tuổi đầu 50 hà. Ý tôi muốn nói, tôi đã già, nhưng mà so ra trong số người già thì thật ra tôi vẫn còn ... trẻ. Nghịch thường (paradoxical) quá, phải không nà?

Trí nhớ nghịch thường là paradoxical memory trong tiếng Anh, ông bác sĩ bạn tôi nói dzậy. Nghe xong cụm từ này, tôi thấy "yêu" nó luôn! Vì nghe nó rất hay. Không hiểu người khác thấy thế nào chứ tôi mà nghe cái gì paradoxical là ... tò mò lắm. I love paradoxes, you know, being a paradox myself!

Nói cà rỡn mà chơi thế chứ thật ra khi nghe người bạn bác sĩ "định bệnh" cho tôi rằng trí nhớ (già) của tôi giờ đây hoạt động theo kiểu nghịch thường thì tôi ... lo lắm! Vì, khổ lắm, tôi còn đang đi làm mà, chưa đủ tuổi về hưu, mà nếu hưu rồi thì hu hu hu chắc cũng phải kiếm cái gì làm chứ vì lương hưu của VN có ai sống được đâu?

Vậy mà cái trí nhớ khốn khổ của tôi lúc này nó lại không chịu hoạt động bình thường nữa, mà thích hoạt động theo kiểu nghịch thường cơ. Ôi thôi, bác sĩ phán cho em như thế thì em tiêu rồi bác sĩ ơi!!!!

Nên tôi bèn quyết tâm đi tìm hiểu xem trí nhớ nghịch thường nó ra làm sao, và liệu có cách nào làm nghịch đảo cái trí nhớ nghịch thường này cho nó trở lại bình thường hay không?

Tôi đã tìm, và tôi ... không thấy!!!! Chả tìm thấy trí nhớ nghịch thường đâu cả (hay tại em kém quá bác sĩ ơi?). Nhưng cũng tìm được vài cái đáng đọc, liên quan đến cái trí nhớ già, lão niên này của tôi. Thôi thì không có chó (!), ta tự ... đọc những cái dưới này cũng được (hú hồn!).

Dưới đây là một cái tôi đã tìm thấy, tuy là lấy từ Internet, nhưng nguồn của nó xem ra cũng đáng tin cậy (well at least it's what I think), xin ghi lại đây trước hết là để tự phục vụ (e rằng có ngày cái trí nhớ của tôi nó hoạt động một cách nghịch thường, thì còn có cái để xem lại), sau nữa là để giúp các bạn già của tôi, những người đầu 6x như tôi, hoặc 5x, 4x biết đâu có khi cần đến?

Improving memory: Understanding age relaled memory loss : Cái này hay quá, đúng không?

Đúng "ngay chóc" cái tôi cần: "Cải thiện trí nhớ: Tìm hiểu về việc suy giảm trí nhớ theo tuổi tác". Các bạn đọc ở đây.

Xin trích lại đây 10 lời khuyên giúp cho các lão niên chúng ta đừng có trí nhớ nghịch thường:

1. Exercise - Tập thể dục (chà chà, cái khoản này tôi hơi ... lười, à mà thật ra đâu có lười, chẳng qua là sáng ra ... quên mất vì già rồi mà lại ;-))

2. Keep learning - Học, học nữa (nhưng nhớ đừng có ... "hộc máu" nhé!)

3. Don't smoke - Đừng hút thuốc (cái này mấy ông đàn ông VN hơi .... kém! À quên, giỏi chứ. Giống như Mark Twain đã nói: "Trên đời này không có gì dễ hơn bỏ thuốc. Như tôi đây này, tôi đã bỏ thuốc đến hàng trăm lần rồi chứ ít gì?")

4. Drink alcohol only in moderation - Rượu chè in ít thôi, các bác ạ! (Như Tú Xương đã nói: "Có chăng chừa rượu với chừa trà!)

5. Maintain a healthy diet - Ăn uống điều độ(ok, no comment!)

6. Consider taking vitamins - Bổ sung vitamins khi cần(khổ, làm sao biết khi nào cần bổ sung cơ chứ?)

7. Get a good night's sleep - Đêm ngủ cho đủ giấc (ie, đừng lên mạng nhiều quá!)

8. Be social - Có nhiều bạn bè (good good, tưởng gì chứ cái này thì em xung phong! Không hiểu có thể lấy cái số 8 này thay cho cái số 1 được không bác sĩ ơi? ;-))

9. Manage stress - Giảm stress (đã hẳn! nhưng làm sao để giảm stress nhỉ? trong trường hợp của tôi: đi họp in ít thôi, tránh được là tránh luôn!)

10. Protect your brain from impacts and toxins - Bảo vệ bộ não không bị căng thẳng hoặc những suy nghĩ độc hại (hình như cái này liên quan mật thiết với cái số 9 thì phải?)

Ô, thế thì hóa ra là dễ dàng quá bà con ơi. Sống vui vẻ, điều độ, sẽ có trí nhớ bình thường! Hoan hô y học thường thức! Cứ như thế này, các bác sĩ VN sẽ dần dần giải nghệ thôi!

Hurrah!
---
Viết thêm:
Còn một bài này nữa cũng rất hay, về cùng chủ đề, trên cùng nguồn tư liệu, ở đây. Put your brain to work, hãy bắt não bạn làm việc. Vậy thì viết blog như thế này cũng là một cách chống lão hóa, phải không các bác?

Thứ Ba, 20 tháng 4, 2010

Những bài thơ từ thời tiểu học

Tôi vừa tìm thấy một bài thơ mà tôi học từ thời tiểu học, nhờ đọc blog của BS Hồ Hải với những hồi ức và tự sự của ông. Tìm thấy, và giật nẩy mình, cùng với những bồi hồi xúc động, với những ký ức cũ ùa về.

BS Hồ Hải là người cùng thời và ít nhiều cùng cảnh ngộ với tôi: một người lớn lên ở SG trước năm 1975, nhưng gốc gác không phải là ở SG mà là từ một nơi khác, Nam tiến! Có lẽ nhờ thế mà đồng cảm, hoặc ít ra, dễ nói chuyện, vì có những điều mình nói ra người khác không hiểu hoặc không thông cảm do không cùng trải nghiệm.

Tôi sinh ra ở tận Sóc Trăng, nhưng cha mẹ là người gốc Bắc di cư, vào miền Nam năm 1954 nên còn gọi là Bắc 54, để phân biệt với Bắc 75. Nhân tiện, những cái tên gọi này có lúc có người xem là "kỳ thị", nhưng hôm nay khi ngồi viết những giòng này thì tôi thấy những tên gọi đó cũng cần thiết để phân biệt các nhóm người với những đặc điểm vừa giống nhau vừa khác nhau. Cho nên mới thấy, kỳ thị hay không thì không ở tên gọi, mà ở thái độ của người sử dụng tên gọi đó.

Quay trở lại bài thơ. Đó là một trong những bài học thuộc lòng mà tôi được học từ thời tiểu học, và vẫn còn lưu trong bộ nhớ dài hạn đến bây giờ, mặc dù ít có dịp truy hồi lại. Nhưng khi vừa đọc câu đầu và cái tựa của bài thơ thì giống như một cuộn băng cũ vừa được bỏ vào máy và nhấn nút "play", tất cả bài thơ đó tự động chảy ra khỏi trí nhớ đã đóng bụi của tôi. Nó đây, tôi chép từ trang web mà BS Hồ Hải đã đưa link:

ANH HÙNG VÔ DANH
(Tặng những chiến sĩ vô danh tranh đấu cho tổ quốc)

Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước

Họ là kẻ tự nghìn muôn thủa trước
Đã phá rừng, xẻ núi, lấp đồng sâu
Và làm cho những đất cát hoang vu
Biến thành một sơn hà gấm vóc


Họ là kẻ không nề đường hiểm hóc
Không ngại xa hăng hái vượt trùng sơn
Để âm thầm chuẩn bị giữa cô đơn
Cuộc Nam Tiến mở giang sơn rộng lớn rộng

Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Dưới gót giầy của những kẻ xâm lăng
Đã xông vào khói lửa, quyết liều thân
Để bảo vệ Tự Do cho Tổ Quốc

Trong chiến đấu không nề muôn khó nhọc
Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan
Người thất cơ đành thịt nát xương tan
Nhưng kẻ sống lòng son không biến chuyển

Và đến lúc nước nhà vui thoát hiểm
Quyết khước từ lạc lộc với vinh hoa
Họ buông gươm quay lại chốn quê nhà
Để sống lại cuộc đời trong bóng tối

Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi
Trong loạn ly như giữa lúc thanh bình
Bền một lòng dũng cảm, chí hi sinh
Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch

Tuy công nghiệp không ghi trong sổ sách
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên
Tuy mồ hoang phiêu dạt dưới trời quên
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật

["sổ sách" là tôi chép nguyên văn bài thơ trong cái link đã được cung cấp, nhưng theo trí nhớ của tôi và logic của bài thơ thì nó phải là "sử sách"!]

Nhưng máu họ đã len vào mạch đất
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
Và anh hồn chung với tấm tình trung
Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt
.

ĐẰNG PHƯƠNG
Link: http://www.tinparis.net/vanhoa/vh_NguyenngocHuy-BaXaoDangPhuong_VuUYenGiangHoNam.html

Toàn bộ bài thơ chép ra là như vậy, nhưng những đoạn in nghiêng là phần tôi nhớ đã được học trong bài học thuộc lòng hình như là hồi lớp 1, tổng cộng gồm 4 khổ thơ. Thật không ngờ là tôi nhớ không sai một chữ! Điều này cho thấy trí nhớ trẻ em thật kỳ diệu, có thể nói là photographic (trí nhớ chính xác như chụp hình). Và nếu đầu óc non nớt của trẻ thơ được tiếp thu những điều đúng đắn mang tính nhân bản - lòng thương người, yêu cha mẹ, thầy cô, có trách nhiệm với bản thân, đối xử công bằng và giúp đỡ bạn bè, thương yêu súc vật và người cơ nhỡ, kính trọng người già, yêu tổ quốc, hiểu về lịch sử dân tộc với cả những cái đúng và cái sai - đúng để tự hào và sai để tránh lặp lại - thì những điều đó sẽ còn đó trong trí óc của trẻ thơ và theo chúng đến hết cuộc đời.

Phải chăng đó là phần dường như còn thiếu của giáo dục ngày nay, khi ta vội vã nhồi nhét cho các em những kiến thức mà hiện nay có thể tìm thấy dễ dàng chỉ với vài giây gõ từ khóa để làm một google search?

Bài thơ vừa chép ở trên làm cho tôi lại nhớ thêm được những bài khác mà tôi đã học thời tiểu học, những bài thơ theo tôi đến cuối cuộc đời.

Ví dụ như bài này, liên quan đến lịch sử mở cõi của dân tộc ta, mà tôi đã nhớ lại một cách đau đớn vì cảm giác có lỗi trong lần tôi đi thăm khu di tích Mỹ Sơn. Lúc ấy, có một người hướng dẫn viên gốc Chăm dẫn chúng tôi đi để giải thích ý nghĩa của các di tích trên, và anh ấy (trạc bằng tuổi tôi, tôi nghĩ thế) có nói một câu tôi không bao giờ quên: "Các cô hãy nhìn vào mắt chúng tôi xem. Người ta bảo người Chăm chúng tôi có đôi mắt rất buồn. [Ừ mà buồn thật, đôi mắt với cặp chân mày rất rậm và cong, và sâu thăm thẳm] Nhìn phế tích của chúng tôi như thế này thì các cô hiểu tại sao mắt người Chăm buồn rồi chứ?"

Tôi hiểu mà. Hiểu từ bé lận. Bài thơ tôi học đây này:

Trên đồi cỏ(?) nắng hè gay gắt
Những mảnh lăng đổ nát nằm trơ
Mình đầy những vết thương xưa
Máu Chàm nhuộm đỏ đến giờ chưa phai.
[Chàm là cách gọi người Chăm thời trước năm 1975)

Tầng tháp cao rã rời nghiêng ngả
Bước thang lầu tường đá đổ xiêu
Cỏ gai tàn phá tiêu điều
Tượng thần dưới đất ra chiều đau thương.

(Chỗ chấm hỏi là những từ tôi không chắc lắm).

Một bài thơ khác tôi vẫn còn nhớ loáng thoáng đến giờ, nói về tình cảm gia đình:

Tan buổi học mẹ ngồi tựa cửa
Mắt trông con đứa đứa về dần.
Xa xa con đã tới gần
Các con về đủ quây quần bữa ăn.

Cơm dưa muối khó khăn mới có,
Của không ngon, nhà khó cũng ngon.
Khi vui câu chuyện thêm giòn
Chồng chồng vợ vợ con con một nhà.


[Bài này tôi mới cập nhật hôm nay 26/4/2010, hôm trước không nhớ rõ, mới tìm lại trên Internet, không ngờ bài thơ này là của Tản Đà đấy! Ai muốn đọc đầy đủ thì lên đây.]

Tuy không nhớ trọn vẹn nhưng tôi nhớ là bài thơ này làm tôi xúc động lắm. Vì lúc ấy nhà tôi rất đông anh em, gia đình khá chật vật, bố tôi vừa đi học vừa đi làm, mẹ tôi tần tảo vừa nuôi con (cứ 2 năm lại sinh một đứa, tổng cộng đến 8 anh em, sao giỏi thế không biết?), nên nhưng câu thơ đó, đặc biệt là 2 câu "cơm rau muối..." làm cho tôi rất ý thức là mình phải cố học cho giỏi để sau này thành tài, giúp đỡ cha mẹ và phụng sự tổ quốc (nghe có vẻ "thuộc bài" quá phải không, nhưng trẻ con mà, tôi tin thật như thế đấy, chẳng có chút gì giả dối ở đây cả!)

Và một bài khác nữa, bài này hình như học hồi lớp 5, nên hy vọng là còn nhớ trọn bài. Tiếc cái là không nhớ tựa. Bài này nhằm dạy cho trẻ con lòng thương người, đặc biệt là những người kém may mắn hơn mình:

Nhà em có một u già
Từ bao giờ chẳng học qua chỗ nào
Hỏi già rằng tại làm sao?
Già cười móm mém, ui chao tại nghèo!

Em nhìn vầng trán nhăn nheo
Thương già không biết bao nhiêu, em buồn
Em cầm mấy ngón tay xương
Bảo già hễ viết chữ luôn là mềm.

Từ khi già học chữ em
Sáng hơn đôi mắt nhưng thêm lưng còng
I tờ già đọc rất thông
Già ru em ngủ, bồng bông i tờ.

Chữ em dạm, chữ già đồ
Run run đôi nét đậm mờ cuốn nhau.
Em đọc trước, già đọc sau
Hơi già thở ấm cả đầu tóc em.


Bài thơ cuối cùng này khi các con tôi còn nhỏ, đang học tiểu học, tôi cũng đọc cho chúng và chúng cũng rất thích. Có lẽ vì lời thơ dễ hiểu, không trau chuốt, lại hợp với tình cảm trẻ thơ, nên chúng nhớ, chẳng cần ép buộc.

Lại nhớ có một ông thầy gần đây dạy vật lý (?) cho học sinh bằng cách hát như nhạc ráp, và rất thành công, nhưng không được ủng hộ vì dạy cách gì ... lạ quá! Nên nói như BS Hồ Hải, ngày xưa soạn sách giáo khoa người ta có cả một ban tu thư hùng hậu trong đó có những chuyên gia tâm lý - chuyên gia đúng nghĩa - để những gì làm ra phù hợp với lứa tuổi của trẻ em. Bây giờ có làm như vậy không nhỉ, chuyên gia nhiều lắm mà, tiền công quỹ hình như cũng nhiều, mà SGK thì cứ phải sửa đi sửa lại...

Tôi muốn nói gì qua entry với mấy bài thơ thời tiểu học này? Có lẽ chẳng muốn nói gì cả, hoặc là rất nhiều. Ít nhất thì cũng ghi lại đây những gì còn nhớ, kẻo một lúc nào đó cả trí nhớ nghịch thường cũng sẽ phản bội mình.

Liệu có ai đọc những giòng này của tôi không nhỉ, những người mà thông điệp tôi muốn gửi đến? Tôi bỗng cảm thấy mình giống như Nguyễn Du (tôi chỉ nói tâm trạng, chứ tài cán thì tôi chỉ là một hạt cát so với Thái Sơn!):

Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?


Ba trăm năm nữa, 3 năm nữa, 3 ngày nữa, biết có ai còn đọc những giòng này của tôi không?

Thứ Bảy, 3 tháng 4, 2010

Nếu bỗng thấy tan tành sự nghiệp ...

Mà nín thinh xây tiếp cuộc đời
Hay trong một ván bạc thôi
Mất hàng trăm tiếng không lời thở than


Trên đây là khổ thơ đầu tiên của bài thơ dịch nổi tiếng lẫy lừng mà hồi còn nhỏ tôi vẫn được nghe ba tôi đọc cho cả nhà nghe. Môt bài thơ rất hay mà sau này khi lớn, học Cử nhân Anh văn tại ĐH Tổng hợp TP HCM (ĐH Văn Khoa cũ), tôi mới biết nó là bài thơ có tựa là If. Tác giả của nó là nhà thơ, nhà văn Anh nổi tiếng Rudyard Kipling.

Một bài thơ thực sự có ý nghĩa và thật nhiều kỷ niệm trong đời tôi - những kỷ niệm buồn nhiều hơn là vui. Những câu thơ mà tôi trích dẫn ở trên, đặc biệt là 2 câu đầu, hoặc thậm chí chỉ một câu đầu thôi, đã một thời là câu trích dẫn đầu môi của ba mẹ tôi trong những năm đầu sau khi cuộc chiến tranh Nam-Bắc chấm dứt.

Cuộc sống lúc ấy thật cơ cực. Gia đình tôi ly tán, 2 người con đầu trong số 8 người con trong dịp binh biến 30/4 đã lưu lạc theo dòng người "di tản" theo những người lính Mỹ và lính VNCH rời khỏi VN chưa liên lạc được, ba tôi nghỉ việc, mẹ tôi một mình tần tảo với 6 người con (và 1 ông chồng thất nghiệp, bất đắc chí, vì sự nghiệp tan tành quá sớm khi chỉ mới ngoài 40, như một cái cây đang vươn lên bỗng bị chặt ngang ngọn ...).

Và tôi, trong tình hình đó tự nhiên trở thành chỗ dựa lớn nhất và cũng là "đầu sai" quan trọng nhất cho mẹ tôi. Liên lạc với phường xã làm giấy tờ, khai báo hộ khẩu, đi họp đi hành để nghe phổ biến các chủ trương, đường lối, rồi họp để nghe vận động cải tạo tư sản công thương nghiệp, tóm lại là họp hành mọi nơi mọi lúc. Vì mẹ tôi còn phải buôn bán nên "cử" tôi đi họp, ba tôi thì đau bệnh, có lẽ vì trầm cảm.

Mà sao hồi đó họp hành gì mà nhiều thế nhỉ? Nào họp tổ dân phố, rồi hội phụ nữ, hội thanh niên, rồi cả đội thiếu niên nữa (năm 1975 tôi 15 tuổi, vừa được liệt kê vào danh sách thanh niên từ 15-28, lại vừa được liệt kê vào danh sách thiếu nhi - thiếu niên, nhi đồng - từ 6-15), đi lao động xã hội chủ nghĩa, dọn vệ sinh đường phố theo phong trào "nhà sạch nhà, phố sạch phố", rồi "ngày chủ nhật cộng sản", làm thủy lợi ... Ôi, bây giờ chỉ liệt kê không cũng thấy ngộp thở, mà sao lúc ấy tôi cũng làm được, quả là giỏi thật đấy!

Tôi nhớ lần đổi tiền cuối cùng vào năm 1985, trước đó tin đồn đổi tiền đã rân ran nhưng nhà nước nhiều lần trấn an dư luận, nói rằng sẽ không đổi tiền. Ba mẹ tôi, mà nhất là ba tôi, là người rất thật thà, rất "công chức", tuân thủ luật pháp và tin tưởng vào chính quyền lắm, nên không "phòng thủ" gì.

Rồi đến sáng hôm đó thì nhà nước tuyên bố đổi tiền! Ba tôi là người nghe tin đó đầu tiên, và thông báo cho mẹ tôi. Phản ứng của mẹ tôi là rất phẫn nộ, vì trước đó nhà nước vẫn nói là không đổi tiền. Và ba tôi cười cười, nhưng mà có lẽ là cười như mếu, và "tụng" cái câu mà đối với gia đình tôi đã trở thành một loại "thần chú", để giúp tăng thêm nghị lực vượt qua các nghịch cảnh của cuộc đời: "Nếu bỗng thấy tan tành sự nghiệp ...".

Và một lần khác, đau xót hơn rất nhiều, khi tôi và mẹ tôi được báo là ba tôi bị bệnh ung thư phổi và tiên lượng chỉ còn khoảng 6 tháng (sau đó ba tôi mất thật, dù đã đưa sang chữa trị ở Hoa Kỳ, chỉ sau 9 tháng!), mẹ tôi cũng thốt câu thơ đầy nghị lực, nhưng không kém phần bi thương ấy: "Nếu bỗng thấy tan tành sự nghiệp!"

Bài thơ còn 4 câu khác tôi cũng rất thích, chép ra đây trước khi chép toàn bài cho mọi người cùng thưởng thức, và lưu lại cho thế hệ sau. Vì tôi tin là những người thuộc thế hệ của tôi là thế hệ cuối cùng được đọc bài thơ ấy. Còn thế hệ của các con tôi, các thế hệ 8x và 9x, hỡi ôi, là một thế hệ lạc lõng, sản phẩm của một nền giáo dục đang đi dần đến chỗ khủng hoảng. Bạo lực học đường, nhà giáo mua dâm... Sao lại thế này được, hở trời?

Nếu chiến thắng sau hồi thất bại
Nhìn hai trò giả dối như nhau
Vẫn ngay lưng, vẫn ngẩng đầu
Trong khi thiên hạ dễ hầu còn nguyên?


Vâng, đúng là một bài học đạo đức bằng thơ, thấm thật sâu đến tận đáy lòng tôi, mà tôi không bao giờ quên được.

Và đây, bài thơ, cả nguyên tác bằng tiếng Anh và bản dịch mà tôi chép lại theo trí nhớ. Hình như bản dịch này là của cố học giả Nguyễn Hiến Lê, nhưng tôi không rõ lắm. Ai biết được gì hơn về bài thơ này xin bảo cho tôi với.

IF

If you can keep your head when all about you
Are losing theirs and blaming it on you;
If you can trust yourself when all men doubt you
But make allowance for their doubting too;
If you can wait and not be tired by waiting,
Or being lied about, don't deal in lies,
Or being hated, don't give way to hating
And yet don't look too good, nor talk too wise :

If you can dream - and not make dreams your master;
If you can think – and not make thoughts your aims;
If you can meet with Triumph and Disaster
And treat those two impostors just the same;
If you can bear to hear the truth you've spoken
Twisted by knaves to make a trap for fools
Or watch the things you gave your life to, broken,
And stoop and build'em up with worn out tools,

If you can make one heap of all your winnings
And risk it on one turn of pitch-and-toss,
And loose, and start again at your beginnings
And never breathe a word about your loss;
If you can force your heart and nerve and sinew
To serve your turn long after they are gone,
And so hold on when there is nothing in you
Except the Will which says to them: "Hold out!"

If you can talk with crowds and keep your virtue,
Or walk with Kings – nor lose the common touch,
If neither foes nor loving friends can hurt you,
If all men count with you, but none too much;
If you can fill the unforgiving minute
With sixty seconds' worth of distance run,
Yours is the Earth and everything that's in it,
And – which is more – you'll be a Man, my son!


RUDYARD KIPLING
(Được giải Nobel Văn Chương năm 1907)

NẾU

Nếu bỗng thấy tan tành sự nghiệp,
Mà nín thinh xây tiếp cuộc đời,
Hay trong một ván bạc thôi
Mất hàng trăm tiếng, không lời thở than;

Nếu yêu chẳng mê man xuẩn động,
Hùng dũng mà mềm mỏng chẳng quên,
Biết bị oán, chẳng oán nguyền,
Song mình, mình tự giữ gìn đấu tranh;

Nếu chịu được đồ ranh xuyên tạc
Pha lời mình khích bác đồ ngu,
Gièm mình, miệng thế điên rồ,
Không hay chữ lỏng, hợm khoa dạy đời;

Nếu quyền quý chẳng rời đại chúng,
Gần quân vương giữ đúng dân nguyên,
Yêu thương tất cả bạn hiền,
Bằng tình huynh đệ chẳng riêng một người;

Nếu chiến thắng sau hồi thất bại,
Nhìn hai trò giả dối như nhau,
Vẫn ngay lưng, vẫn ngửng đầu,
Trong khi thiên hạ dễ hầu còn nguyên;

Thì Đắc thắng, Thần tiên, Vương đế,
Và Duyên may nô lệ con hoài;
Và, hơn vương thế vinh thời,
Con ơi, con mới là Người, đó con!

---
Người ơi, Người ở đâu trong xã hội VN ngày nay?

Thứ Bảy, 20 tháng 3, 2010

Quà vặt của một thời

Một người bạn của tôi mới mail cho tôi bài viết này, chẳng biết xuất xứ từ đâu. Thấy nó hay hay, và giúp tôi ôn lại kỷ niệm xưa, tôi đưa lên đây để lưu và chia sẻ với mọi người. Để hiểu, và nhớ, về một thời đã và đang lui dần vào quá khứ.

Về tựa của bài viết: Tác giả Vân Giang đặt tên là Quà một thời, còn người bạn khi gửi cho tôi thì gửi subject của mail là Ăn hàng rong. Còn tên entry này, Quà vặt của một thời, là do tôi đặt. Cho nó dễ hiểu hơn một chút. Mặc dù tựa của tác giả cũng đã rất hay, nhưng hơi kiệm lời, e những người dài dòng như tôi sẽ không hiểu!

--
QUÀ MỘT THỜI


Vân Giang

Lời tác giả: Thân tặng bạn bè tôi, những người dân Sài Gòn đã sống cùng thời với tôi trên mảnh đất thân yêu này, dù còn ở lại hay đã đi xa; Những người bạn mới quen và cả những người chưa từng quen biết. Để nhớ về những món quà tuyệt diệu của tuổi thơ mà bây giờ chỉ còn lưu lại trong chúng ta hương vị ngọt ngào của một thời đã xa mãi mãi.

***
Tôi là một người có "tâm hồn ăn uống". Cái thân hình đều đặn ba vòng bằng nhau bây giờ là kết quả (hay hậu quả?!) của mấy chục năm miệt mài thưởng thức một cách hết sức nhiệt tình những món ngon và chưa ngon của hầu hết những quán hàng tiệm ăn to nhỏ lớn bé trong lòng thành phố! Ăn trong nhà hàng máy lạnh có nhạc nhè nhẹ êm dịu mọi người nói năng nhỏ nhẹ lịch sự hay ăn trong một quán nướng ồn ào tiếng cụng ly côm cốp cười nói rân trời của mấy ông bợm nhậu, hay ăn nhỏ nhẻ mát mẻ trong một sân vườn cạnh bờ sông bốn bề gió lộng nước lách tách vỗ sóng bên sàn gỗ dưới chân...
Tôi đã ăn cùng với bạn bè, người thân, người yêu và cả với người ghét (thí dụ như phải đi ăn đám cưới của cảnh sát khu vực chẳng hạn!) những món ăn đã có từ thời xưa hay những món vừa được sáng chế ra lúc mới đây, những món có tên gọi bình dân hay những món nghe nghĩ mãi chẳng biết là món gì bởi cái tên gọi vừa cầu kỳ vừa bí hiểm! Có món tôi thích, có món không. Nhưng chưa bao giờ có một món ăn nào làm cho tôi chợt ngẩn người vì một nỗi nhớ nhung lạ lùng, đến dường như khắc khoải, như trong một lần gần đây khi đi qua một ngôi trường tiểu học nhỏ nằm cạnh một đường ray xe lửa, trong khi đứng chờ bên cạnh thanh chắn ngang đường ray, giữa tiếng bánh sắt nghiến rầm rập, hình ảnh hai em bé học sinh cùng uống chung một chiếc ly nhựa nhỏ nước xi rô bất giác làm tôi nhớ đến món quà của tuổi nhỏ ngày xưa, bây giờ không còn thấy bán nữa: cục đá nhận! Và tôi nhớ đến bàng hoàng tha thiết những món quà hồi tôi còn nhỏ, những món quà của một thời!

Ồ, nói ra thì thấy lạ lùng, chứ hồi nhỏ quả không mấy ai là không mê cái vị ngọt lạnh dễ chịu của cục đá nhận mà cách làm vừa đơn giản vừa… mất vệ sinh của xe nước giải khát bán ở cổng trường! Có lẽ khi ấy kem cây chưa có nhiều, lại mắc không phù hợp với túi tiền ít ỏi của lũ học trò nhỏ chúng tôi, nên cục đá nhận vừa lạnh vừa ngọt, có màu sắc rực rỡ lại rẻ tiền được hoan nghênh số một!

Người bán hàng dùng một cái bàn bào nước đá bằng gỗ bốn chân có một lưỡi dao bào bằng thép trên mặt đặt cục nước đá lên, bào ra những vụn đá tơi xốp trắng toát đầy cái đĩa nhôm nhỏ hứng ở dưới, nhanh nhẹn dùng một cái ly nhựa nhỏ hốt đầy đá bào vào ấn chặt như cách ta làm bánh bằng khuôn, gõ nhẹ cho cục đá bào đã được nén chặt trong ly rớt ra, vớ lấy chai xi rô màu xanh, đỏ hay vàng theo yêu cầu (xanh lá cây là mùi Bạc Hà, vàng là Chanh, đỏ là Cam hay Lựu) trên nắp chai xi rô bằng nhựa đã đục sẵn một lỗ nhỏ, xịt mấy cái trên cục đá nhận cho nước xi rô thấm vào, vừa xịt vừa khéo léo xoay tròn cục đá cho màu loang đều, có khi còn rưới thêm một chút nước chanh muối lên trên nếu được nằn nì xin thêm. Đứa học trò trả tiền chộp ngay lấy cục đá nhận ngửa cổ mút lấy mút để vị ngọt lạnh trong lúc đứa bạn không có tiền kiên nhẫn chờ kế bên đợi khi cục đá nhạt màu vì đã gần hết xi rô thì được mút ké một chút, cứ thế hai đứa nhỏ vừa đi vừa kề đầu chụm vai chia nhau một cục nước đá nhận đã hết cả vị ngọt lẫn mùi thơm, chỉ còn trơ cái lạnh và nhạt trên đầu lưỡi bị nhuộm màu!

Ở cổng trường tiểu học của tôi hồi đó có nhiều hàng quà rong lắm. Mặc dù đã có lời dạy không nên ăn quà vặt nhưng hầu hết học sinh đều vi phạm bởi sức hấp dẫn của những món quà này. Mà ngày xưa thì quà bánh cũng chẳng lấy gì làm phong phú đẹp đẽ như ngày nay, chỉ những món đơn giản rẻ tiền mà sao nhớ nhung đến thế, hay vì trong những món quà thời ấy còn chất chứa cả một thời trẻ dại hồn nhiên chưa biết nghĩ suy gì?! Trẻ con ngày nay đi học hầu hết đều được Cha Mẹ đưa đón bằng xe riêng, ít thấy em nào đi một mình, hàng quà lại bị cấm bày bán trước cổng nên chẳng còn cảnh lê la ăn quà trước khi vào lớp như chúng tôi ngày xưa. Hồi tôi nhỏ, đi học toàn là tự đi bộ một mình, mấy đồng bạc cắc đút túi cứ như muốn nhảy ra khỏi tay trước những mẹt quà bày sát lối vào trường, thôi thì đủ món đủ thức tùy theo mùa theo vụ:

Đây là hàng bánh tráng kẹo có bà bán hàng mặc áo nâu nhanh nhẹn trở bánh trên bếp than nhỏ trong một cái nồi bầu miệng loe bằng đất nung, vừa thoăn thoắt bẻ bánh mới nướng xong còn đang nóng hổi, kéo những đường mạch nha dẻo quẹo trên mặt bánh rắc lên nhúm dừa nạo trắng muốt rồi gập đôi miếng bánh lại, món quà này tương đối mắc tiền, chỉ khi nào có tiền nhiều một chút tôi mới ăn.

Đây là mẹt hàng của một chị còn trẻ tuổi tóc búi gọn phía sau gáy, bán đủ thứ bánh kẹo xanh đỏ rất ưa nhìn:

Những cái bánh bằng bột gạo nướng với đường nhỏ xíu tròn tròn như những cái móc dùng để treo màn cửa màu vàng cam được xâu từng chùm vào một sợi dây lác để đeo vào cổ như một sợi dây chuyền, những xấp me ngào bột màu nâu đỏ nhỏ cỡ đồng xu ăn với muối ớt chua chua ngọt ngọt, những viên cốm nếp ngào đường tròn cỡ nắm tay thơm thơm mùi gừng, những cục kẹo ú đẫm bột hình khối tam giác màu vàng nhạt, những cục kẹo sữa màu trắng đục cắn vào có vị bùi béo của đậu phụng rang giã nhuyễn gói bằng giấy màu trắng có chữ màu xanh, những viên kẹo màu xanh màu vàng màu đỏ bọc giấy bóng kiếng trong thơm mùi trái cây, những bịch mứt dừa nhuộm đủ màu, những bịch bánh tráng tròn nhỏ màu vàng đỏ mặn mà…

Còn ai nhớ vị ngọt chát của những trái Trâm to bằng đầu ngón tay cái màu tím thẫm ăn vào nhuộm tím cả lưỡi cả miệng? Những trái Nhãn Lồng mọc hoang nhỏ cỡ đầu ngón tay út vỏ màu trắng ngà với chút xíu cơm mỏng dính ngòn ngọt. Những trái Sung chín đỏ nhìn ngon mắt nhưng nhạt phèo và ruột đôi khi có đầy kiến gió. Những trái Chùm Ruột chua ghê răng ăn với muối ớt. Những trái Bình Bát trông giống như trái Mãng Cầu Xiêm nhưng lổn nhổn hạt chua chua… Loại trái cây mọc hoang dại trong lùm, trong bụi nơi vùng ngoại ô thành phố được bày bán trong những mẹt hàng nho nhỏ bên cổng trường thuở ấy đã gợi thèm thuồng biết bao đứa học trò nhỏ mỗi lúc ghé nhìn.

Và đây nữa, những trái Cóc xanh gọt vỏ rồi tách thành một bông hoa nhiều cánh ngâm trong nước Cam Thảo vàng, những lát xoài sống ăn với mắm ruốc tím có điểm những khoanh ớt đỏ thắm, chùm trái Trường trông giống như những trái Vải tí hon vỏ màu đỏ nâu, những chùm trái Sai vỏ đen nhung với lớp ruột màu vàng cam có cái hạt dẹp dẹp nho nhỏ trông giống như .. một con ve chó lớn! Và Thơm xẻ miếng, và Đu Đủ, Mận, Mít bày trong một cái tủ nhỏ bằng kính có đặt cục đá ướp lạnh.

Tôi không biết ăn Ô Môi. Thứ trái cây dài ngoằng và cứng ngắt ấy không ngờ là hậu thân của những bông hoa đỏ thắm xinh đẹp vẫn mọc dọc bờ sông nhiều nhà ở miền tây Lục Tỉnh. Trái Ô Môi hơi giống trái Phượng nhưng to hơn, cũng có vỏ màu nâu đen. Khi ăn phải hái phơi kỹ trên nóc nhà cho khô, dùng dao chặt thành từng khúc ngắn, vạt hai bên vỏ trái cho lộ ra lớp hạt xếp đều đặn dính liền nhau bởi một lớp cơm màu nâu đen như nước màu kho cá, và cái mùi thum thủm của nó thì thật khó tả! Tôi chịu! Chỉ nghe đã muốn bịt mũi chạy xa, vậy mà bọn bạn tôi cứ mua từng khúc gặm ngon lành, còn cẩn thận mút cho bằng hết những chiếc hạt ấy, nghe kể rằng ngọt nhưng hơi chát ăn mãi không chán!

Tôi rất thích đến bên thùng xe làm bắng sắt tròn của ông hàng Kẹo Bông Gòn. Ở giữa tâm vòng tròn có một cái lõi nhỏ, mỗi khi ông bán Kẹo cho vào đó ít đường cát trắng, vừa đạp cái bàn đạp cho vòng thùng tròn quay thì lớp đường kéo tơ hiện ra càng lúc càng nhiều, đưa đôi đũa quơ quanh một vòng thành một lớp bông gòn xốp mịn nhìn thật đẹp mắt, cho vào miệng lớp bông ấy tan nhanh để lại vị ngọt ram ráp trên đầu lưỡi như một chút tiếc nuối. Hàng kẹo kéo thì lúc nào cũng có quay số, số bao nhiêu thì được trúng bấy nhiêu kẹo, nhưng hễ số kẹo càng nhiều thì ông hàng kẹo kéo lại kéo nhỏ cây kẹo thêm một chút, rốt cuộc nếu gộp tất cả số kẹo trúng thưởng vào chung thì có lẽ vừa bằng một cây kẹo mua bằng tiền không quay số mà thôi!

Còn hàng kem cây.

Ngày xưa chúng tôi gọi là hàng “Cà Rem” . Người bán Kem có hai bình thủy để cân đối hai bên “boọc ba ga” một bên đựng kem các mùi như Va ni, Sầu Riêng, Dừa… một bên đựng kem đá với các màu xanh đỏ vàng tượng trưng cho Cam, Chanh và Bạc Hà. Mỗi khi bán, tùy theo giá tiền người bán sẽ dùng dao cắt cục kem lớn nhỏ khác nhau, dùng một que nhỏ ghim vào miếng kem mà đưa. Một loại kem khác, thứ này mắc tiền hơn, mà người ta thường bán trong tiệm nhưng cũng có những xe đẩy bán trước cổng trường, là loại kem múc bằng muỗng tròn để lên trên những cái bánh bột mỏng hình loe dài như một đài hoa xinh xắn có đủ các màu vàng xanh trắng, rưới lên trên khi thì một ít đậu phụng rang giã nhuyễn với một chút sữa đặc có đường, khi thì một chút xi rô xanh xanh đỏ đỏ. Trẻ con không thích ăn kem ly, phải đứng tại chỗ mà ăn, mất thì giờ; vừa đi vừa ăn ngon mà nhanh hơn. Hôm nào có tiền kha khá một chút thì mua hẳn một cái bánh mì ngọt kẹp mấy cục kem có rưới sữa và rắc đậu vào thì quả là ngon hết chỗ chê!

Buổi sáng đến trường sớm mà chưa ăn sáng ở nhà, đã có hàng xôi của bà hàng với hơi nóng nghi ngút bốc lên kèm theo mùi thơm hấp dẫn! Bà hàng lấy một miếng lá chuối cỡ hai bàn tay xoè, đặt lên trên đó một miếng bánh tráng phồng cỡ bàn tay, thường có hai loại xôi là xôi đậu xanh và Xôi Nếp than, ai muốn ăn gì thì bà sẽ xới xôi ấy lên trên miếng bánh phồng, trét một lớp nhưn đậu xanh nấu chín tán mịn lên, rưới một muổng mỡ hành có lẫn mấy miếng tóp mỡ béo ngậy, rắc một lớp đường cát trắng và sau cùng là chan lên một muổng nước cốt dừa. Xôi được gói chặt lại sao cho miếng bánh phồng bọc kín hết như một lớp vỏ bánh, cắn vào vừa bùi vừa béo, thơm ngon làm sao! Cạnh đó lại có bà cụ người Bắc mặc áo vải trắng đầu vấn khăn nhung bày một thúng bán xôi Lúa hay còn gọi là Xôi bắp, cụ có hàm răng đen nhánh với miệng cười hiền từ, thoăn thoắt xé lá gói những gói Xôi bắp với những hạt Bắp màu trắng đục hầm mềm và những hạt nếp dẻo thơm phức, cũng là đậu xanh nấu chín nhưng đậu của xôi Bắp thì giã tơi thành một lớp bột khô rắc lên trên, chan vào một muổng nhỏ hành tím bào mỏng phi vàng rồi sau cùng là một muổng muối đường.

Ít tiền hơn đã có hàng khoai luộc. Cũng tỏa khói nghi ngút nhưng giản dị hơn, chỉ một nồi hay rá nhỏ đặt trên bếp lửa, này là khoai lang Bí vỏ nâu đỏ ruột vàng, khoai lang Dương Ngọc vỏ hồng tím ruột tím nhạt, cả khoai lang trắng ruột trắng như bột, khoai Đà Lạt thì củ nhỏ mà ốm nhưng mật tươm cả ra ngoài vỏ, lâu lâu mới thấy bán. Khoai Mì (Sắn) thì cắt thành từng khúc xếp ngay ngắn bên cạnh những củ khoai Mì Tinh (có người còn gọi là khoai Bình Tinh) và củ Chuối (Dong Riềng) và những củ Từ vỏ vàng nhạt hay những củ khoai Môn tròn trĩnh.

Cũng là khoai mì, nhưng khoai mì quết dừa làm bằng những củ khoai bột tán nhuyễn, trộn thêm xác dừa khô nạo và đường cát trắng, thêm chút muối đậu, gói trong lá chuối, có thể dùng lá cây Dứa dại cắt ngắn từng khúc thay cho muổng xúc ăn, hay nắm lại thành nắm như nắm xôi mà ăn; vừa ngọt, vừa bùi. Lại thơm và béo của dừa khô trộn lẫn, ngon không biết tả sao cho vừa!

Khoai mì mài ra lấy bột đem lọc kỹ, để ráo sẽ cắt thành sợi dài mà dẹp, hấp chín rồi cũng trộn chung với dừa khô nạo nhuyễn là sẽ thành món bánh tằm khoai mì trộn dừa, muốn có màu sắc hồi đó người bán không dùng màu hóa chất mà lấy màu xanh của lá dứa, màu tím của lá cẩm, màu đỏ của trái gấc chín, nên những sợi bánh tằm ăn vào mỗi màu có một mùi thơm riêng biệt, vì vậy ăn ít ngán hơn.

Hồi đó trước cổng trường tôi có một bà già người Tàu mà mọi người thường gọi là Thím Xẩm bán bánh ướt rất ngon. Bánh ướt của người Tàu khác bánh ướt của người Việt ở chỗ bánh họ tráng dầy hơn, lại thoa lên trên một lớp mỡ có hành lá xắt nhỏ rồi cuộn lại thành từng cuộn dẹp, ăn với nước mắm pha loãng và giá trụng. Bà Tàu già ấy quanh năm chỉ thấy mặc một chiếc áo vải màu đen bạc phếch, một chiếc quần ngắn trên mắt cá bó ống và một đôi giày vải đen có thêu đã cũ mèm. Tóc bà cắt ngắn tới ngang cổ, cài một chiếc lược sừng đã bóng lộn vì thời gian. Mặc cho lũ chúng tôi tíu tít hối thúc bà già vẫn chậm chạp cắt bánh, lấy rau, rót nước mắm, rửa đĩa, thu tiền, những động tác chậm chạp của tuổi già và đôi mắt một mí hum húp như thuộc về một nơi chốn khác, không phải là cái nơi ồn ào nhộn nhịp của một cổng trường đang giờ sắp mở cửa.

Cái bánh tôm ăn chung với bánh ướt của bà Tàu già cũng ngon lạ lùng. Khá giống với bánh Cóng của Sóc trăng, nhưng không có tôm, cũng không có giá, tuy gọi là bánh tôm nhưng chỉ có đậu xanh hột được hấp chín và bột gạo, chiên vàng thành những cái bánh tròn xốp, ăn không biết chán.

Cùng một thứ ăn với nước mắm như bánh ướt là huyết heo hấp. Những miếng huyết heo vuông vức cỡ lòng bàn tay màu đỏ nâu được hấp chín rải lên trên từng lớp mỡ hành xếp đầy trong chiếc nồi được ủ nóng bằng mấy lớp bao bố dầy cộm. Người bán dùng dao cắt miếng huyết heo thành từng lát, cho thêm mỡ hành, giá trụng và một nhúm rau thơm cắt nhỏ, chan nước mắm lên, thế là xong! Nhưng món quà này ăn mau ngán, nên người bán hàng, một ông già mặc áo quần màu nâu, đầu đội mũ cối nhựa trắng, chở chiếc nồi trên yên sau chiếc xe đạp cọc cạch cũ kỹ, lâu lâu mới ghé qua cổng trường, dựng chiếc xe đạp vào một góc tường quen thuộc, vừa phì phà điếu thuốc vấn vừa chờ đợi đám khách hàng nhỏ tuổi.

Cũng bán hàng trên xe đạp và cùng là đàn ông bán hàng là món gỏi khô bò. Trong chiếc thùng một mặt có kính đựng đầy ắp những sợi đu đủ xanh bào mỏng, khô bò màu đen sánh cất trong một ngăn tủ nhỏ, chai giấm trắng, chai nước tương đen, chai nước ớt màu đỏ xếp cạnh chồng đĩa nhôm nhỏ, nắm đũa nhôm chiếc cong chiếc thẳng cắm trong một ống đựng treo lủng lẳng, ông hàng gỏi có một chiếc kéo sắt đen và to vừa dùng để cắt khô bò, vừa dùng nhắp thành những tiếng đều đều báo hiệu thay cho tiếng rao mời.

Cái đĩa nhôm trầy trụa và trẹt lét của ông hàng gỏi chỉ được tráng qua nước rồi lau vội bằng một cái khăn màu cháo lòng sau khi có khách ăn xong, lại được bốc đầy có ngọn nắm đu đủ bào, vài sợi khô bò nhỏ xíu cỡ đầu que diêm đặt khéo léo lên trên, một chút rau thơm thái sợi và một nhúm đậu phọng rang vàng giã dập, chan đẫm nước giấm và nước tương, thêm chút ớt đỏ cay cay, chúng tôi vừa ăn vừa xuýt xoa xin thêm giấm, thêm nước tương, ăn hết đu đủ húp cạn hết cả nước giấm mà vẫn còn thấy thòm thèm!

Bánh mì tương cũng là món quà được bọn học trò chúng tôi chiếu cố tận tình vì rẻ mà lại ngon; chỉ có một khúc bánh mì không xẻ ra, rưới một muổng tương đen, một muổng tương đỏ, thứ tương người ta vẫn dùng để ăn phở nhưng có lẽ người bán đã cho thêm ít đường cho dịu bớt, và thêm ít bột cho sánh lại, gắp vào một ít đồ chua làm bằng củ cải trắng và cà rốt cắt sợi ngâm giấm đường là có một món vừa ngon vừa no bụng. Nếu có tiền thì ăn bánh mì bì, bì làm bằng da heo cắt sợi nhuyễn, thêm chút thịt đùi heo chiên cắt nhỏ như que tăm, trộn một chút thính gạo rang vàng cho thơm, bánh mì bì ăn với hành lá xắt nhỏ phi chín chung với tóp mỡ, chan nước mắm chua ngọt, ngon hơn bánh mì tương một bậc, và cũng mắc tiền hơn!

Bắp thì có hai thứ, bắp luộc đựng trong thúng ủ tấm bàng tròn, hơi nóng bốc lên cùng với mùi lá dứa thơm phức, những trái bắp vỏ ướt nước nóng hổi cầm bỏng cả tay, xé lớp vỏ như những lần lụa mỏng mềm mại phía trong cùng là lớp hạt vàng rực đều đặn hiện ra trông thật bắt mắt, hạt bắp luộc dẻo và ngọt, nếu ăn bắp non thì cái cùi bắp mềm mà ngọt không thua gì mía hấp. Bắp nướng thì phải ngồi đợi một bên cái bếp than làm như một cái máng chữ nhật nhỏ của bà hàng, chờ lớp vỏ ngoài cháy đen một phần, bà mới bóc hết làn vỏ bắp ra để những hạt bắp được nướng chín trên lửa từ từ trỡ sang màu vàng ruộm, rồi vàng cháy, mùi bắp nướng thơm lừng tỏa ra trong không khí, xé một miếng vỏ bắp bọc lấy cái cuống trái bắp nướng dốc ngược đầu xuống một chén mỡ hành đặt cạnh bếp, dùng một đoạn sống lá chuối chẻ dập đầu thoa đều mỡ hành lên khắp trái bắp, mùi thơm của bắp và mỡ hành làm chúng tôi nuốt nước miếng thèm thuồng, cầm vội vàng trái bắp nóng hôi hổi trên những ngón tay lóng ngóng và gặm hối hả, vị mặn mà của mỡ hành có lẫn vài miếng tóp mỡ dòn dòn, hạt bắp vừa cứng vừa dẻo, nhồm nhoàm một cái đã thấy chỉ còn trơ lại cái cùi khô khốc vô duyên!

Bây giờ ít thấy bán đậu đỏ bánh lọt, thứ quà ngon mà mắc tiền hơn đá nhận xi rô, vẫn bán trước cổng trường trên những chiếc xe đẩy bằng nhôm sáng loáng thuở nào. Trong những chiếc thẩu tròn xếp thành dãy người ta đựng nào là đậu xanh hấp chín màu vàng đậm đà, nào là đậu đen chín bở, đậu đỏ đều hạt, đậu Mỹ màu trắng hạt to như đầu ngón tay cái,và một cái thẩu đầy những sợi bánh lọt màu trắng trong và dai ngập trong nước đừa đục màu sữa, lại có cả hạt É lấm tấm như những chùm trứng Ếch tí hon có lẫn những tảng nhỏ Lười Ươi nâu như màu mận chín, nước đường thắng kẹo đựng trong hũ thủy tinh trong được múc bằng một cái muổng đặc biệt làm bằng nửa quả Mù U khô cắm trong một cây đũa tre dài.

Đã lâu lắm tôi không còn thấy ai bán Bông Cỏ với Hột Lựu. Hình như món ăn này, cũng như món mía hấp, mía ghim đã lặng lẽ biến mất tự lúc nào chẳng ai hay biết. Mía hấp thì thường là một người đàn ông trung niên đẩy xe ba bánh rao bán trên đường phố vào khoảng tối khuya, tiếng rao "Mía hấp" kéo dài hơi ngân nga và ánh sáng chập chờn của một ngọn đèn dầu nhỏ thắp trong chiếc lồng đèn vuông thường gợi nhớ vào những tối trời tạnh mưa, không khí ẩm và lạnh mà mùi thơm ngọt ngào của những cây mía nóng hổi khi mở nắp chiếc vung to lớn của ông hàng mía lan tỏa trong không gian thật là dễ chịu. Ông hàng Mía hấp có một cái bào to với một bên thân bào là dao bén ngót. Những khúc mía màu nâu tím hay vàng mơ được hấp chín trong một loại nước có vị thuốc Bắc xếp đầy trong một cái thùng sắt to đặt trên bếp than cháy âm ỉ để giữ cho nước trong nồi lúc nào cũng nóng già, khi có người mua ông dùng bào róc sạch vỏ rồi nhanh nhẹn trỡ lưỡi dao tiện thành từng khẩu mía ngắn và đều nhưng không tiện đứt hẳn mà vẫn còn dính vào nhau, mía hấp ăn thơm và mềm, người già răng yếu cũng có thể ăn được. Mía ghim thì chỉ là mía thường, róc vỏ, bỏ mắt và tiện ra thành những lóng ngắn nhỏ cỡ một đốt ngón tay, ghim vào trong một đoạn tre ngắn được chẻ ra nhiều thanh nhỏ ở một đầu thành ra một bông hoa ngộ nghĩnh xoè tròn người ta thường bán trước cửa rạp hát hay rạp xi nê hồi đó. Mía bây giờ người ta đựng trong bịch nylon, tuy cũng tiện tròn nhưng nhìn tẻ nhạt chứ không xinh xắn hấp dẫn như mía ghim thuở đó!

Bông Cỏ thì đặc biệt hơn, trông giống như Sương Sa nhưng hơi mềm mình, và lại thơm ngon hơn nhiều. Có lẽ tuổi nhỏ với khẩu vị đơn giản và đồng tiền có hạn nên món nào hồi xưa mình ăn đều thấy ngon lạ ngon lùng, hay bởi vì những món ăn thời ấy còn chất chứa cả một khung trời ký ức êm đềm dịu ngọt nữa mà bây giờ cho dẫu có ăn bất cứ món gì mình cũng thấy không thể sánh bằng? nhưng món Bông Cỏ thì quả là hơn đứt Sương Sa hay Thạch của người Bắc, Đông Sương của người Trung. Bông Cỏ hình như là xuất xứ từ bên Tàu, cách làm cũng khá lạ, phải ngâm nước một đêm cho nở rồi mới cho vào trong một cái bao vải dày (gọi là bao bồng bột) cùng với một vài (bao nhiêu?) trái chuối Xiêm chín, nhồi lấy nước sền sệt pha chung với nước lã sao cho vừa đủ lượng nước cần dùng, cho vào thau để yên trong mấy giờ sẽ đông lại như Sương Sa nhưng mềm và dẻo hơn, dùng cái muổng như cái vá xới cơm nhưng dẹp và mỏng hơn vát nhẹ thành từng miếng mỏng cho vào ly, ăn với bột mì tinh cắt nhỏ vuông vức pha màu hồng đỏ luộc vừa chín còn cái ngòi bột trăng trắng nhỏ xíu trông giống như những hột Lựu tươi vừa tách ra khỏi trái chín cây (vậy nên mới được gọi tên là Bông Cỏ Hột Lựu), chan nước đường thắng kẹo và nước cốt dừa béo ngậy, thêm vào chút dầu chuối đựng trong cái ve nhỏ xíu mà thơm lừng. Đôi khi người ta còn bán chung với Sương Sáo và Sương Sâm, một thứ màu đen có mùi hôi nhẹ của thuốc Bắc, một thứ màu xanh biếc của lá cây với những đám bọt nhỏ phía trên mặt, ăn cùng với đường cát trắng lạo xạo trong miệng và những vụn đá bào mát lạnh.

Lớn thêm một chút, vào Trung Học, tôi nhớ tới những xe bán Bò Bía trước cổng trường, người bán thoăn thoắt gói những cuốn nhỏ bánh tráng có ít củ sắn và cà rốt thái sợi xào chín giữ nóng trong một cái thau nhỏ đặt trên bếp lửa, cho thêm vài lát Lạp Xưởng mỏng tanh, một ít tép ruốc chấy vàng nhuộm đỏ, có khi một ít trứng chiên vàng cắt sợi, một lá Sà lách, vài ngọn rau thơm, ăn với tương ngọt và tương ớt có ít đồ chua, một ít hành phi dòn và một ít đậu phọng rang giã dối. Cuốn Bò Bía ngọt thì chỉ là một cuốn bánh bột mỏng gói cây kẹo dòn và ít dừa nạo sợi, rắc ít mè rang vàng, chỉ tiện ở chỗ có thể cất vào trong cặp dành ăn trong giờ ra chơi, còn thì chẳng có gì đặc biệt!

Xi rô kem khác với kem ly, vì có cả đá bào và nước xi rô trộn chung với mấy muổng kem thành một thứ vừa dùng để múc ăn vừa có thể uống như nước được, có thấy bọn học trò xúm quanh hối thúc bà hàng thì mới thấy món quà này được ưa chuộng ra sao. Ya ua cũng có thể ăn theo cách này, chung với đường và đá gọi là ya ua đá. Sinh tố bịch thì làm bằng các loại trái cây cho vào máy xay nhuyễn, thêm đường thêm nước thành một loại thức uống ngon lành cho vào bịch ny lon nhỏ cột chặt bỏ tủ đá cho đông cứng lại, bọn con gái chúng tôi vẫn thường mút một đầu bao mút như mút đá nhận mặc cho bọn con trai tròn mắt thèm thuồng mà giả vờ trêu chọc.

Những quả ổi luộc ngâm trong nước cam thảo màu vàng luôn là món hấp dẫn tôi hơn cả Me và Cà Na ngâm. Xẻ đôi trái Ổi ra, màu ruột vẫn trắng ngà và dòn tan, nhưng lớp vỏ ngoài lại hơi mềm và ngọt mùi cam thảo, trét lên một lớp muối ớt cay cay thì thật là tuyệt! Me thì dòn và đã được lấy sạch hột, Cà Na hơi chát mà chua chua, trời ơi còn Xoài sống thì cắn miếng nào biết miếng đó, Chùm ruột chỉ nhìn thôi đã ứa nước miếng vì thèm, Cóc chín trái vàng lườm và thơm nức mũi. Những món trái cây ngâm ấy được gói trong mấy tấm lá chuối xanh rờn, một góc là nhúm muối ớt đỏ tươi ngon lành, buổi trưa trời nắng đổ lửa hay buổi sáng rét nhẹ chúng tôi đều chiếu cố tận tình như nhau! Vậy mà chẳng thấy đứa nào đau bụng đau bão gì, ấy thế mới lạ!

Còn hàng Phá Lấu trên đường Pasteur, nơi có xe nước mía Viễn Đông nổi tiếng một thời với những cây tăm tre xiên vào từng xâu nhỏ gan, lưỡi, tim … phá lấu màu nâu đen thơm phức vừa miệng đặt trong mấy cái đĩa nhôm bày trên một mẹt hàng có bốn chân gác chéo, mà tôi đã đi ăn cùng với người bạn trai đầu tiên. Ly nước mía mát lạnh hơn cả những câu chuyện thủ thỉ không đầu không đuôi tuổi học trò nhớ lại vẫn còn cảm thấy ngọt ngào. Hẻm Casino SaiGon có hàng Bún chả và bánh cuốn Thanh Trì một ngày nào đã dung dăng dung dẻ cùng các bạn vào ăn sau khi mỏi chân mỏi mắt khắp phố phường, trong Crystal Place hay trong P***age Eden. Hiệu kem Pole Nord nằm bên thương xá Tax với một dãy ki ốt hoa tươi trên đường Nguyễn Huệ một tối nào tôi nhận từ tay người bạn trai sắp theo tàu đi xa một bông hồng màu đỏ thắm với bàn tay ấm áp ân cần. Quán cơm Bà cả Đọi nằm trên một căn phòng nhỏ thấp sâu trong hẻm với những món ăn được dọn ra trên chiếc đi văng bóng gỗ bóng màu thời gian, những món ăn quen thuộc như bữa cơm thường ngày gợi nên cảm giác gia đình cùng ăn với bọn bạn là sinh viên miền Trung vào SaiGon trọ học….

Vậy mà thoắt cái đã mấy mươi năm! Những món ăn tôi đã ăn trong cả một thời ấu thơ cùng với bạn bè, những món ăn tôi đã chia sẻ cùng với những người thân thương một thuở, bây giờ có món vẫn còn bày bán đâu đó trong thành phố, có món đã lâu lắm chẳng còn nhìn thấy lại. Nhưng cùng với thời gian trôi qua, và mọi điều đã thay đổi, tôi mãi mãi sẽ chẳng bao giờ còn có thể thêm một lần nữa nếm được cái hương vị ngọt ngào tuyệt diệu của những món quà ấy, cho dù có tha thiết ước ao, hay thèm thuồng mong đợi đến thế nào!

Như có lần tôi đã bày tỏ cùng một người bạn ít tuổi hơn nhiều, và lại không cùng sinh ra, lớn lên trong cùng một hoàn cảnh sống, về những món ăn ở một nơi mà cô đã đến, nghe ca tụng nhưng thất vọng lúc nếm thử, rằng cái hương vị trong ký ức của mỗi một người khi ăn một món ăn nào là hương vị rất đặc biệt chỉ riêng người ấy mới cảm nhận được, gói ghém cả những ngọt ngào của quá khứ và kỷ niệm, mà không phải ai cũng có thể sẻ chia. Nhớ lại những món ăn một ngày nào, là tôi nhớ lại biết bao là êm ái và dịu ngọt, mà những món quà tuy tầm thường bé nhỏ ngày xưa ấy, cho dẫu chỉ là quà của một thời, nhưng lại là một thời của những tháng ngày yên vui mãi mãi trong tâm tưởng, mà những khoảnh khắc quý báu ấy thì mãi mãi tôi chẳng bao giờ có thể nguôi quên.