Đọc các kỳ 1, 2, 3, 4, 5, 6 trong các entry trước trên blog này.
------------
"Thôi
đừng nhắc tới chuyện đó nữa”, mẹ tôi bảo. “Rửa chân tay cho sạch đi rồi mới ngồi vào ăn chứ!”
Nhưng không ai bảo tôi rời bàn ăn cả. Mọi người không ai nói gì một lúc lâu. Rồi Laird bỗng nói một cách bình thản: “Chị ấy khóc kìa.”
“Thôi không sao,” bố tôi bảo. Với một vẻ dứt khoát và thậm chí còn hơi vui vẻ, ông thốt lên những lời đối với tôi vừa là lời giải thoát và cũng là lời xua đuổi vĩnh viễn. “Nó là con gái ấy mà,” ông bảo.
------------
Khi tôi
trở về nhà, mẹ tôi hỏi, "Nãy giờ ồn ào gì thế?" Tôi trả lời rằng con
Flora đã hất cái hàng rào và chạy đi mất rồi. “Tội nghiệp cha mày,” mẹ tôi nói,
“giờ thì ông ấy lại phải chạy khắp vùng để đuổi bắt con ngựa ấy”. Thế là không
hy vọng được ăn trưa trước 1 giờ rồi. Mẹ tôi đặt chiếc bàn ủi lên bàn. Tôi muốn
kể sự thật cho mẹ tôi nghe, nhưng nghĩ sao lại thôi, và tôi đi lên lầu ngồi
trên giường ngủ của mình.
Gần
đây tôi đã cố gắng sửa sang bài trí cái góc riêng của tôi trong phòng để làm cho nó
đẹp đẽ ưa nhìn hơn.Tôi sửa tấm màn cửa bằng ren cũ thành khăn trải giường, tự sửa
cho mình một cái bàn trang điểm và còn tận dụng miếng vải cretone bọc nệm còn thừa
để may cho mình một chiếc váy. Tôi còn dự định sẽ tạo ra một đường phân cách giữa
giường của tôi và của Laird, để giữ cho phần của tôi được tách biệt. Trong ánh
nắng, những tấm màn treo cửa bằng ren trông chỉ như những miếng giẻ rách bụi bặm.
Chúng tôi không còn hát vào ban đêm như trước đây nữa. Lần đó tôi cất tiếng hát
khi nằm trên giường trước khi ngủ như lúc chúng tôi còn bé thì thằng Laird bỗng nhận xét, "Chị
hát nghe ngớ ngẩn lắm,” và mặc dù hôm ấy tôi vẫn hát tiếp như không có gì xảy
ra, nhưng những đêm sau tôi đã thôi không hát nữa. Mà thực ra cũng không còn cần
thiết: chúng tôi đã không còn sợ bóng tối. Chúng tôi biết ở phía bên kia chỉ là
những bàn ghế cũ, những đống giẻ và những thứ lộn xộn khác. Tôi vẫn giữ thói
quen thức và tự kể chuyện cho mình sau
khi thằng Laird đã ngủ say, nhưng ngay cả trong những câu chuyện đó mọi thứ bây
giờ cũng đã khác, có những điều kỳ lạ, bí ẩn đã diễn ra khác với thời xưa. Những
câu chuyện ấy có thể bắt đầu giống như
trước đây, cũng có những điều hiểm nguy kỳ thú, những đám cháy hoặc động vật hoang dã; nhưng rồi
sau đó mọi vật bỗng thay đổi, và thay vì tôi là một vị anh hùng cứu người như
ngày xưa thì tôi lại trở thành người được giải cứu. Người cứu vớt tôi có thể là
một thằng bé học cùng lớp với tôi ở trường, hoặc thậm chí là ông Campbell , thầy giáo của
chúng tôi , người có thói quen cù léc các cô học trò của mình ở dưới cánh tay.
Và đến lúc ấy thì tự nhiên câu chuyện lại có liên quan đến diện mạo của tôi –
tóc tai thế nào, quần áo ra sao, và đến lúc tôi đã hình dung ra mọi chi tiết về diện mạo của mình thì câu chuyện cũng
mất hết sự hồi hộp hấp dẫn.
Quá
một giờ trưa chiếc xe tải của cha tôi mới trở về. Phía sau xe che tấm bạt – như
thế có nghĩa là chiếc xe có chở thịt. Mẹ tôi hâm nóng lại thức ăn. Chú Henry và
cha tôi đã cởi bỏ bộ đồ bảo hộ lao động bê bết máu và mặc vào bộ quần áo thường
mặc khi làm việc trong nhà kho; họ rửa ráy chân tay mặt mũi và hất nước lên đầu
và chải tóc. Thằng Laird cánh giơ tay lên vẫn còn dính máu lên. “Mọi người đã bắn
con Flora và xẻ thịt nó ra thành 50 mảnh đấy”, Laird khoe.
Cha
tôi bắt Laird đi ra ngoài rửa cho hết dính máu rồi mới được vào bàn.
Chúng tôi
ngồi vào bàn ăn, cha tôi đọc kinh cầu nguyện, còn chú Henry thì nghịch ngợm dán
miếng bã kẹo cao su vào cái nĩa như chú vẫn thường làm thế, để khi chú kéo miếng
cao su ra thì nó sẽ tạo thành những đường sọc làm chúng tôi thích thú. Chúng
tôi bắt đầu chuyển cho nhau những bát rau luộc nhừ còn đang bốc khói. Laird
nhìn thẳng vào mặt tôi đang ngồi phía đối diện và kiêu hãnh nói rõ từng chữ: “Dù sao, con Flora chạy đi như thế cũng là do lỗi của
chị ấy.”
“Cái gì?”
Cha tôi hỏi lại.
“Lẽ ra chị
ấy đã kịp đóng cổng nhưng lại không chịu đóng. Chị ấy còn mở cổng cho con Flora
chạy ra.”
“Thật à?” Cha tôi nói.
Mọi người nhìn chằm chằm vào tôi. Tôi gật đầu, nuốt
nghẹn thức ăn trong miệng. Tôi cảm thấy hổ thẹn và nước mắt bỗng tuôn ra.
Cha tôi kêu
lên một tiếng trong họng với vẻ rất khinh bỉ.
“Mày làm như vậy để làm gì, hả con?”
Tôi không
trả lời. Tôi ngừng ăn, bỏ cái nĩa xuống và chờ được cho phép rời bàn, mặt vẫn
không ngẩng lên.
Nhưng không ai bảo tôi rời bàn ăn cả. Mọi người không ai nói gì một lúc lâu. Rồi Laird bỗng nói một cách bình thản: “Chị ấy khóc kìa.”
“Thôi không sao,” bố tôi bảo. Với một vẻ dứt khoát và thậm chí còn hơi vui vẻ, ông thốt lên những lời đối với tôi vừa là lời giải thoát và cũng là lời xua đuổi vĩnh viễn. “Nó là con gái ấy mà,” ông bảo.
Tôi đã
không hề phản đối những lời ấy của cha tôi, ngay cả trong thâm tâm cũng không.
Có lẽ cha tôi đã nói đúng.
[1968]