Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2013

Tư liệu: Nguồn gốc chữ quốc ngữ (Tác giả: Huỳnh Ái Tông): (1)


Là một người Việt chọn ngôn ngữ (tiếng Anh) làm một nghề để theo đuổi, từ lâu tôi đã rất quan tâm về việc tại sao trong số các nước chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Trung Hóa là Nhật, Hàn và Việt Nam, chỉ có mỗi mình Việt Nam là có sử dụng mẫu tự La tinh để ghi âm tiếng nói của mình. Vấn đề này lại càng hấp dẫn hơn đối với tôi vì gia đình tôi theo đạo Công giáo, và tôi từ nhỏ tôi đã được học rằng chữ quốc ngữ (chữ viết chúng ta đang dùng hiện nay) là do các cố đạo tạo ra - tất nhiên ban đầu để phục vụ mục đích của họ. Điều đáng nói là Việt Nam đã có lúc cấm đạo rất dữ dưới thời các vua nhà Nguyễn, nên chữ quốc ngữ - vốn do các cố đạo phương tây tạo ra trước hết là với mục đích truyền đạo - hẳn phải bị kỳ thị lắm, nhưng không hiểu sao từ một công cụ được xem là của bọn "ngoại bang" dùng để truyền "tả đạo" vào VN, nó lại trở thành ngôn ngữ quốc gia?

Câu hỏi này không chỉ làm tôi tò mò, mà còn là một đề tài nghiên cứu tiến sĩ của một anh NCS người Đài Loan mà tôi đã có dịp gặp vào đầu thập niên 1990 khi VN mới bắt đầu mở cửa. Khi ấy tôi còn ở Khoa Anh của Trường ĐH Tổng hợp cũ, và hay được nhờ để phiên dịch khi có những đoàn nước ngoài vào VN. Anh chàng NCS còn trẻ lắm, chưa đến 30, và mới bắt đầu thực hiện nghiên cứu thôi. Luận điểm của anh ta là VN cũng như Đài Loan đều đã có khởi điểm giống nhau, tức các giáo sĩ phương Tây đến truyền giáo và tạo ra chữ viết theo mẫu tự La tinh để phục vụ việc truyền giáo, nhưng cuối cùng hai nơi có kết quả khác nhau là vì người Việt Nam có tinh thần ái quốc và độc lập dân tộc cao hơn (!) nên đã nhận ra vai trò của chữ quốc ngữ như một công cụ để phục vụ phong trào yêu nước dành độc lập và truyền bá tư tưởng về tự do dân chủ vv. Nghe ra rất thú vị, và tất nhiên đó chỉ là giả thuyết; kết cục anh ta đã nghiên cứu ra sao thì tôi không còn liên lạc để biết. Nhưng dẫu sao cũng là một giả thuyết mà theo tôi là khá có giá trị mà chúng ta cần tiếp tục tìm hiểu.

Hôm nay có một ít thời gian, tôi tìm và đưa về đây một số tư liệu về chữ quốc ngữ để lưu cho mình và chia sẻ với mọi người. Enjoy các bạn nhé!
--------------
Nguồn: http://namkyluctinh.org/a-ngonngu/huynhaitong-quocngu.pdf

A. Đại Cương
Danh từ chữ Quốc ngữ hay chữ Việt, người Việt chúng ta đã dùng từ lâu, mặc dù nó không được chính danh. Bởi vì danh từ chữ Quốc ngữ là danh từ chung, chỉ cho các thứ chữ của một nước, chẳng hạn chữ Nôm ( 1 ) cũng là chữ Quốc ngữ của nước ta, nhưng do chúng ta dùng lâu đã quen, nên danh từ chữ Quốc ngữ để chỉ cho chữ viết chúng ta dùng ngày nay. Chữ nầy thoạt đầu do những vị giáo sĩ Tây phương truyền đạo tại Việt Nam, họ mượn mẫu tự La tinh, ghép lại để ghi âm địa danh và nhân vật địa phương, từ đó nó đã trải qua các thời kỳ hình thành chữ Quốc ngữ, qua quá trình hình thành, nó đã được sự đóng góp của người Việt cũng như người ngoại quốc, phần chính vẫn là người Việt chúng ta.


Sự hình thành chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm ba thời kỳ :
* Thời kỳ sáng tạo từ năm 1621.
* Thời kỳ xây dựng năm 1651.
* Thời kỳ phát triển từ năm 1867.


Chúng ta biết rằng, khoảng giữa thế kỷ XVI, lúc ấy nước ta chia thành Nam, Bắc triều. Năm 1533, có giáo sĩ Irigo (I-Nê-Khu), người Âu, theo đường biển vào nước ta ở Đàng Ngoài, tại Nam Định để giảng đạo. Năm 1596, giáo sĩ Diago Advarte đến Đàng Trong ở một thời gian rồi bỏ đi, cho đến năm 1615, giáo sĩ Francesco Buzomi đến lập Giáo Đoàn Đàng Trong (Mission de la Cochinchine), đến năm 1627, giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) mới lập Giáo Đoàn Đàng Ngoài (Mission de Tonkin).

Cả hai giáo đoàn nầy đều thuộc Dòng Tên, có một trung tâm truyền giáo ở Áo Môn (Macao – Trung Quốc), vì trước kia người Bồ Đào Nha sang Trung Hoa buôn bán, họ ở bán đảo Schangch’nan thuộc Quảng Châu, vào khoảng năm 1557, có bọn cướp biển trú ẩn ở Áo Môn, thường hay khuấy nhiễu Quảng Châu, nên người Trung Hoa nhờ các thương gia Bồ Đào Nha dẹp bọn cướp biển ấy, sau khi dẹp xong bọp cướp, người Bồ Đào Nha xin phép nhà cầm quyền Trung Hoa cho họ trú ngụ ở bán đảo Schangch’nan và Áo Môn, mỗi năm họ đóng thuế cho chánh quyền Trung Hoa, cho đến thế kỷ XX Áo Môn vẫn còn thuộc Bồ Đào Nha.

Thuở đó, các nhà truyền giáo Tây phương muốn sang Viễn đông, họ đều theo các thương thuyền Bồ Đào Nha, cho nên họ chọn Áo Môn làm trung tâm truyền giáo để hoạt động ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam, nơi ấy có cả một Viện thần học ” Madre de Dieux ” (Mẹ Đức Chúa Trời).

Do đó các giáo sĩ người Âu thường từ Áo Môn sang Đàng Ngoài hay Đàng Trong và ngược lại, họ thường dùng ngôn ngữ Bồ Đào Nha để giao dịch với nhau, những phúc trình truyền giáo hay thư từ gửi về La Mã có khi họ viết chữ Bồ, có khi họ viết chữ La Tinh.


B. Sự Hình Thành Chữ Quốc Ngữ

I.- Thời Kỳ Sáng Tạo Chữ Quốc Ngữ
Không phải chữ Quốc ngữ hình thành do sự ngẫu nhiên từ những chữ phiên âm tiếng Việt, thực ra chữ Quốc ngữ hình thành theo hướng chung của các giáo sĩ Tây Phương, họ muốn La Tinh hóa các chữ Á Đông nằm trong địa bàn truyền giáo của họ.

Thật vậy, tại Trung Hoa, Hoa ngữ được các nhà truyền giáo dùng mẫu tự La Tinh phiên âm trước nhất, công việc nầy do hai giáo sĩ Dòng Tên là Micac Ruggieri và Matteo Ricci đã soạn quyển Ngữ vựng hay Tự vựng Bồ-Hoa, quyển nầy mỗi trang chia làm 3 cột : chữ Bồ, chữ Hán, phiên âm Hoa ngữ, tài liệu nầy soạn khoảng năm 1584-1588, bảng viết tay còn lưu trử tại văn khố Dòng Tên ở La Mã (Rome).

Năm 1598, giáo sĩ Ricca và Cateneo đã dùng ký hiệu để ghi các thanh Hoa ngữ.

Tại Nhật Bản, các tác phẩm chữ Nhật đã được La tinh hóa, từ năm 1592 đến năm 1596 có đến 10 tác phẩm loại nầy được in ra, hai tác phẩm quan trọng sau đây đáng được nhắc đến:
 

1) Cuốn Giáo lý ghi bằng tiếng Nhật theo mẫu tự La Tinh có tên là : Dotrina Jesus no Compania no Collegio Amacusa ni voite superiores no vou xi no comuni core no fan to nasu mono nari, Nengi, 1592.

2) Cuốn tự điển La – Bồ – Nhật: Dictionarium latino lusitanicum ac Japonium (In Amacusa in Collegia Japonico Societa Jesus, Anno 1595). Ngoài ra còn có sách ngữ pháp Nhật được in theo mẫu tự a, b, c vào năm 1603-1604.

Tại Việt Nam, thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm 2 giai đoạn :
* Giai đoạn phiên âm.
* Giai đoạn cấu tạo câu.

1. Giai đoạn phiên âm
Về nguồn gốc, có lẽ câu sau đây là một dòng chữ xuất hiện đầu tiên, trong tiến trình hình thành chữ
Quốc ngữ.

” Con gno muon bau tlom laom Hoalaom chian “.
Câu nầy, theo giáo sĩ Christofora Borri ( 2 ), là câu mà các giáo sĩ đàng trong đã dùng trước khi ông có mặt tại đây, nó có nghĩa là : Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng ?

Danh từ Hoa Lang, không rõ do đâu mà có, nhưng đó là danh từ do người Việt Nam thời bấy giờ dùng để chỉ cho người Bồ Đào Nha, và sau đó được dùng để gọi chung các nhà truyền giáo Tây Phương.

Như vậy câu trên là câu các nhà truyền giáo Tây phương muốn hỏi một người Việt rằng : ” Muốn vào đạo Thiên chúa chăng ? “ Vì lẽ câu nói không diễn tả được rõ ý nên Linh mục Buzomi đã sữa lại như sau : ” Muon bau dau Christiam chiam ? “ ( Muốn vào đạo Christiang chăng ?).

Đây là câu trích trong quyển sách của Christoforo Borris xuất bản năm 1631 tại La Mã, viết bằng chữ Ý ( 3 ). Tuy vậy, chúng ta có thể coi những chữ phiên âm trong sách nầy đã được ông dùng trong thời gian từ 1618 đến 1621, là thời gian ông sống ở Đàng Trong.

Phiên âm : Nghĩa
Anam : An Nam
Tunchim : Đông Kinh
Ainam : Hải Nam
Kemoi : Kẻ mọi
Cacciam : Cả chàm (Kẻ Chàm)
Sinunua : Xứ Hóa ( Thuận Hóa)
Quamguya : Quảng Nghĩa
Quignin : Qui Nhơn
Dàdèn, lùt : Đã đến lúc
Scin mocaij : Xin một cái
Chià : Trà
Cò : Có…..


Onsaij : Ông sãi
Quanghia : Quảng Nghĩa
Nuoecman : Nước mặn
Da, an, nua : Đã ăn nữa,
Da, an, het : Đã ăn hết
Omgne : Ông nghè
Tuijciam,biet: Tui chẳng biết
Onsaij di lay : Ông Sãi đi lại
Bàncò : Bàn Cổ
Maa : Ma
Maqui, Macò : Ma quỉ, ma quái
Bũa : Vua Chiuna : Chúa
Bản phúc trình của Linh mục João Roig viết bằng chữ Bồ Đào Nha tại Áo Môn ngày 20-11-1621, để gửi về La Mã, trong ấy có phiên âm vài danh từ như sau :
An nam : An Nam
Sinoa : Xứ Hóa
Usai : Ông Sãi
Ungne : Ông nghè
On trũ : Ông trùm
Ca cham : Ca chàm ( kẻ chàm, tức Thanh Chiêm, thủ phủ Quảng Nam Dinh, thời ấy dân chúng gọi là Cả Chàm hay Dinh Chàm)
Nuocman : Nước Mặn
Bafu : Bà phủ
Sai Tubin : Sãi Từ Bình ( ? )
Banco : Bàn Cổ
Oundelinh : Ông Đề Lĩnh

Cùng năm ấy, Linh mục Gaspa Luis cũng viết một bảng tường trình bằng La văn tại Áo Môn ngày 12-12-1621 gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, để báo cáo về giáo đoàn Đàng Trong, trong ấy có dùng vài phiên âm :
Cacham : Kẻ chàm
Nuocman : Nước Mặn
Ongne, Ungué : Ông nghè
Bancô : Bàn Cổ

Đến ngày 16-6-1625, giáo sĩ Đắc Lộ có viết một lá thư bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas, trong ấy có vài phiên âm :
Ainão : Hải Nam
Tunquim, Tunquin : Đông Kinh

Thêm một tài liệu khác Gaspar Luis viết bằng La văn ngày 1-1-1626 tại Nước Mặn để gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, trong ấy có phiên âm một số địa danh và danh từ:
Fayfó : Hải phố (Fayfo : Hội An)
Cacham : Kẻ chàm

Nuocman : Nước Mặn
Pullocambi : ?
Dinh cham : Dinh chàm
Quanghia : Quảng Nghĩa
Quinhin : Qui nhơn
Ranran : Ran ran ( tức là sông Đà Rằng ở Phú Yên)
Bendâ : Bến đá
Bôdê : Bồ đề
Ondelimbay : Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedoc : Ông Đề đốc
Unghe chieu : Ông nghè Chiêu
Nhit la khaun, khaun la nhit : Nhứt là không, không là nhứt


Và Linh mục Antonio de Fontes người Bồ Đào Nha, đã có đến ở Đàng Trong năm 1624 và Dinh Chàm với Linh mục Pina và Đắc Lộ, cũng ngày 1-1-1626, Linh mục Fontes viết tại Hội An một bản tường trình bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi là Bề Trên Cả Dòng Tên ở La Mã, bảng tường trình nầy gồm có 3 phần, trong ấy cũng cho chúng ta biết thuở ấy giáo đoàn Đàng Trong có 3 cơ sở: Hội An, Kẻ Chàm (Quảng Nam) và Nước Mặn (Qui Nhơn). Trong bảng tường trình nầy, có các phiên âm :
Digcham : Dinh Chàm
Nuocman : Nước Mặn
Quinhin : Qui Nhơn
Sinua, Sinuâ : Xứ Hóa
Orancaya : ?
Quan : Quảng (Quảng Nam)
Xabin : Xá Bình ?
Bếndá : Bến đá
Bude : Bồ đề
Ondelimbay: Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedóc : Ông đề đốc
Onghe Chieu : Ông nghè Chiêu
Nhít la khấu, khấu la nhít : Nhứt là không, không là nhứt
Dinh Cham : Dinh Chàm
Sinóa : Xứ Hóa

Ngày 13-7-1626, Linh mục Francesco Buzomi viết một lá thư chữ Ý gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi, cách phiên âm có tiến triển phần nào, vì các danh từ ghi theo đơn âm như ngày nay, các chữ phiên âm trong bức thư nầy gồm có:
Xán tí : Xán tí (Thượng đế)
Thiên chu : Thiên chủ (Thiên chúa)
Thiên chũ xán tí : Thiên chủ thượng đế
Ngaoc huan : Ngọc hoàng

Cho đến năm 1631, có thêm hai tài liệu của Đắc Lộ: một vào ngày 16-1-1631, ông có viết một bức thư gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas ở La Mã , trong ấy chỉ tìm thấy có một chữ phiên âm Thinhũa : Thanh Hóa, và một bản văn khác thuật lại việc ông cùng Linh mục Pedro Marques tới cửa Bạng (Thanh Hóa) vào ngày 19-3-1627 cho đến lúc Linh mục Antonio F. Cardin đến Thăng Long ngày 15-3-1631 (trong chuyến đi ấy, có các Linh mục Gasparo d’Amiral, André Palmeiro, Antonio de Fontes), tài liệu nầy gồm 2 trang rưỡi chữ, viết trên giấy khổ 16 x 23 cm, trong ấy chỉ phiên âm có mấy chữ :
Sinoa : Xứ Hóa (thuận Hóa)
Anná : An nam
Sai : Sãi
Mía : Mía ( nhà tạm trú)

Những tài liệu phiên âm trên, cho chúng ta thấy phần nào sự manh nha hình thành chữ Quốc Ngữ
trong các năm từ 1621 đến năm 1631. Trong mười năm đó, chúng ta thấy sự phiên âm không mấy tiến triển, chưa có sự thống nhất nào cả, chẳng hạn như danh từ xứ Hóa, họ đã phiên âm :
Sinoa (Jão Roig 20-11-1621)
Sinua, Sinuâ, Sinoá (Antonio de Fontes 1-1-1626)
Sinoa (Đắc Lộ 1631)
Danh từ Ông Nghè :
Omgne (Christoforo Borri 1618-1621)
Ungne (Jão Roig 20-11-1621)
Ongne, Ungué ( Gaspar Luis 12-12-1621)
Unghe (Gaspar Luis 1-1-1626)
Onghe (Antonio de Fontes 1-1-1626)



(còn tiếp)

5 nhận xét:

  1. Tài liệu hay. Cám ơn chị Phương Anh.

    Nhân đây, có một người bạn tôi ở Mỹ cần tìm các sách sau mà hiện ở các nhà sách SG không còn bán nữa:

    1/ Tiếng Việt thực hành, tác giả Hà Thúc Hoan, tái bản lần thứ 9, NXB Tp.HCM, Tp. HCM, 2003.
    2/ Làm văn nghị luận, lý thuyết và thực hành, NXB Thuận Hóa & CTy Văn hóa Phương Nam, Tp. HCM, 2006.
    3/ Ngôn Ngữ Thơ của Nguyễn Phan Cảnh

    Nếu chị Phương Anh hay các bạn đọc nào biết nơi nào còn bán hay có ở nhà vui lòng cho tôi liên lạc để mua lại hoặc xin mượn để photocopy gửi cho bạn tôi vì họ bảo cần lắm. Đa tạ.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Chào bạn Nặc danh 13:44

      Tôi đã nhờ được bạn bè tìm sách. Bạn comment cho tôi và cho địa chỉ email hoặc cách liên lạc nào tiện nhất để tôi chuyển cho bạn các cuốn sách đó nhé.

      Xóa
  2. Tôi đã liên lạc qua mail với người bạn bên Mỹ của bạn rồi nhé. Chờ xem phản hồi thế nào.

    Trả lờiXóa
  3. Cảm ơn chị Phương Anh nhiều lắm!

    Trả lờiXóa