Hiển thị các bài đăng có nhãn translation notes. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn translation notes. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 25 tháng 4, 2010

Lại chuyện chữ nghĩa: vi trùng, vi khuẩn, siêu vi trùng, siêu vi khuẩn, và virút (virus)

Nhân có cuộc tranh luận nho nhỏ giữa các bác ... lớn lớn về mấy từ này bên blog BS Hồ Hải ở đây, và bản thân tôi cũng muốn biết rõ nên tôi đã phải trèo lên lục mấy tủ sách trên tầng ba (thư viện gia đình???) để lôi ra mấy cuốn từ điển xưa mà tôi vẫn để trong tủ sách và dùng thường xuyên hồi chưa có Internet.

Nhân đây cũng khoe một chút: tôi có rất rất rất nhiều từ điển, cái này là một thói quen chẳng biết là tốt hay xấu do bố tôi để lại. Đó là rất mê sách và trong nhà chứa rất nhiều sách. Vả lại, trước đây tôi là dân dạy ngoại ngữ mà.

Thời mới mở cửa (cuối thập niên 1980), có ai biết nói tiếng Anh mấy đâu, cái gì cũng đẩy bọn tôi ra nói và dịch, mà có biết gì đâu để dịch, nên mua đủ loại từ điển về tra cứu và làm ... "vũ khí chống lại kẻ thù xâm lược đất nước" (!) Nhắc lại thời ấy, cũng phải dùng ngôn ngữ thời ấy cho phù hợp chút xíu mà!

Và đây là kết luận về mấy từ này: Tóm lại, vi trùng là từ hơi xưa một chút, bây giờ ít dùng rồi. Vi khuẩn cũng có từ xưa (từ thời Đào Duy Anh lận!), nhưng bây giờ dùng phổ biến hơn. Và vi trùng với vi khuẩn là một thứ. Còn siêu vi trùng hoặc siêu vi khuẩn (hoặc thậm chí có người chỉ dùng siêu vi) là cái mà bây giờ người ta hay gọi là virút hoặc virus, tùy theo mức độ "sính ngoại" hoặc hội nhập của nơi dùng. Có vẻ như miền Bắc có "dân tộc tính" cao hơn nên viết theo kiểu nôm na là vi rút hoặc virút, còn miền Nam thì sính ngoại hơn hoặc hội nhập cao hơn nên hay dùng virus.

Vậy đấy các bác ạ! Dưới đây là phần em chép lại hầu các bác. Trả công em giương mục kỉnh đọc tới đọc lui và đánh máy muốn còng lưng rồi nghe các bác!

Mà bỗng dưng thấy ... thương mấy cuốn từ điển cũ, chúng lợi hại ghê, và trung thành, hiền hậu, củ mì cù mì, như bà mẹ quê, hoặc thậm chí là bà vợ quê (= cơm nguội) luôn ở đó chờ ta quay về, mà ta thì cứ mê mải chạy theo nàng Anh-tẹc-lét xa lạ, vong bản, hư hỏng kia, hic hic!!
---
A. Trích trong Từ điển các thuật ngữ khoa học Anh - Anh - Việt do NXB Thống kê 1998

1. virút (virus) hạt lây nhiễm, chứa lõi axit nucleic (DNA hoặc ARN) được bọc trong vỏ protein. Virút là loại không có tế bào, chỉ có thể hoạt động và sinh sản nếu chúng có thể xâm nhập vào tế bào sống và sử dụng hệ thống của tế bào đó để tự sao chép. Trong quá trình này chúng có thể phá hủy hoặc làm thay đổi tế bào chủ. Trong số các bệnh do virút gây ra có ho gà, cảm cúm, mụn giộp, cúm virút, bệnh dại, AIDS, và nhiều ở thực vật. Bằng chứng gần đây cho thấy virút gây ra một số dạng ung thư. Các thuốc kháng sinh không được dùng để điều trị các bệnh do virút, nhưng vaccine có thể bảo vệ chống lây nhiễm.

2. vi khuẩn (bacterium, bacteria snh) Các sinh vật đơn bào chỉ nhìn được dưới kính hiển vi. Chúng khác với các vật đơn bào bình thường ở chỗ không chứa hạt nhân. Chúng thường sinh sản bằng cách nhân đôi, và vì điều này có thể xảy ra khoảng 20 phút một lần, nên một vi khuẩn có thể có tiềm năng sinh sản ra 16 triệu bản sao của chính nó trong một ngày.

Một số vi khuẩn là loài ký sinh gây ra các căn bệnh, một số khác nếu không được kiểm soát [...] có thể làm hỏng thực phẩm và làm thực phẩm bị nhiễm độc. Tuy nhiên, hầu hết các vi khuẩn đều thực hiện các chức năng thiết yếu trong hệ sinh thái là tiêu hóa xenlulô trong ruột của loài ăn cỏ, tham gia phân hủy chất thải hoặc các vật thể chết, và cải thiện sự màu mỡ của đất nhờ xử lý các hợp chất nitơ. Các vi khuẩn khác thực hiện các chức năng có ích trong công nghiệp sữa như lên men phômai và ya-ua, và trong quá trình xử lý nước thải.
---
B. Trích trong Đại từ điển tiếng Việt của NXB Văn hóa - Thông tin xuất bản năm 1998

1. vi khuẩn Những cơ thể sinh vật gây bệnh hoặc không gây bệnh, có cấu tạo đơn giản, chỉ gồm một tế bào kích thước nhỏ chưa có nhân sinh sản chủ yếu bằng lối phân đôi.

2. vi trùng côn trùng nhỏ gây bệnh vd: vi trùng bệnh lao - ổ vi trùng - diệt vi trùng

3. virút (virus) vi sinh vật nhỏ nhất, dùng kính hiển vi thường cũng không nhìn thấy, phần lớn có thể gây bệnh, vd: virút bệnh dại được truyền qua vết cắn, nằm trong nước bọt

4. siêu vi khuẩn Như virút

5. siêu vi trùng Như virút
---
C. Trích trong Hán - Việt từ điển của Đào Duy Anh, do NXB Khoa học Xã hội in lại tại Hà Nội năm 1992

(Có lẽ lúc ấy in lại cuốn từ điển này thì không xin phép tác giả vì đã khuất, cũng không quan tâm đến bản quyền vì lúc ấy dường như chưa có Luật bản quyền thì phải!)

1. vi trùng Thứ sinh vật rất nhỏ, cũng thường gọi là vi khuẩn hoặc mi khuẩn (microbe)

2. My khuẩn Một thứ thực vật hạ đẳng, gặp thấp khí thì mọc mầm, khi mới sinh thì như sợi tơ trắng, cũng gọi là vi khuẩn, thường gây bệnh cho người (bacille)

2. vi trùng học Như Mi khuẩn học


Có một ghi nhận: từ "mi khuẩn" đứng làm entry head thì được viết là "my", những chỗ khác thì viết là "mi"? Đặc biệt, không tìm thấy từ siêu vi trùng hoặc siêu vi hoặc siêu vi khuẩn trong từ điển của Đào Duy Anh!
--
Nói thêm một chút: tôi là dân gốc ngôn ngữ nên chỉ quan tâm đến ngôn ngữ, mà dễ nhất là tìm được cách dịch 1 đối 1 với tiếng Anh là xong. Nên kết luân của tôi tóm lại là như sau:
1. bacteria: dịch là vi trùng hoặc vi khuẩn (cả hai đều được)
2. virus: dịch là siêu vi trùng, siêu vi khuẩn, hoặc siêu vi; nếu không dịch thì dùng từ vay mượn là virus!

Còn nếu ai muốn tranh luận về chuyên môn (vd: cấu trúc tế bào, nguồn gốc động, thực vật, có lợi hay có hại vv), xin mời vào đây đọc và tranh luận.

Thứ Hai, 22 tháng 2, 2010

Sẽ là gì, những ước vọng không thành

Ước vọng không thành ... Có lẽ ai cũng từng có trong đời, phải không? Và tôi cũng vậy chứ, đương nhiên rồi!

Hồi còn trẻ, chẳng hiểu do đâu, giống ai (chắc giống bố rồi!), tôi là chúa lãng mạn! Có thể ngồi cả đêm để làm thơ, viết viết rồi gạch gạch, xóa xóa, rồi vò luôn tờ giấy quăng đi, lấy tờ giấy khác ra viết, rồi lại gạch gạch xóa xóa, rồi nhặt lại những tờ giấy đã quăng đi trước đó, vuốt lại cho thẳng, đọc lại, chép lại, rồi lại vò giấy quăng đi...

Nên khi tôi đọc được bài thơ tiếng Anh có chứa cái câu mà tôi dùng làm tựa cho entry này (nguyên tác tiếng Anh là "What happens to a dream deferred?") thì ngay lập tức trong đầu tôi xuất hiện lời dịch đó, như nó đã nằm sẵn ở đó để chờ tôi lấy ra thôi.

Bài thơ ấy, tác giả là nhà thơ Mỹ da đen Langston Hughes. Ai muốn biết thêm về Langston Hughes thì vào đây. Còn nguyên văn tiếng Anh của bài thơ đó như sau:

A dream deferred

What happens to a dream deferred?

Does it dry up
like a raisin in the sun?
Or fester like a sore--
And then run?

Does it stink like rotten meat?
Or crust and sugar over--
like a syrupy sweet?

Maybe it just sags
like a heavy load.

Or does it explode?


Tôi biết về Langston Hughes từ thời học đại học với bài thơ cũng rất dễ thương là "Hold fast to dreams" mà một anh bạn cùng lớp của tôi đã dịch rất đạt. Tiếc là bản dịch ấy tôi quên mất rồi, chỉ còn nhớ láng máng vài câu thôi.

Hold fast to dreams
For if dreams die
Life's like a broken-winged bird
That cannot fly.

Hãy ôm lấy mộng vàng
Vì khi giấc mộng tàn ...
(quên rồi!)
(Hai câu sau mới được bổ sung thêm ngày 18/3/2010 sau khi anh bạn 28 năm trước mà tôi đề cập ở trên tình cờ tìm được bài này)
Đời như chim gãy cánh
Không còn thời dọc ngang.


Trở lại bài thơ "Ước vọng không thành" của Langston Hughes. Bài ấy tôi mới đọc cách đây mấy năm thôi, năm 2007 hay 2008 gì đó. Đọc vào dịp nghỉ Tết, có thời gian, nên mới lang thang, thơ thẩn trên mạng. Đọc xong câu đầu tiên, "xuất khẩu thành thơ" luôn ngay tắp lự. Sẽ là gì những ước vọng không thành... Sẽ là gì sẽ là gì sẽ là gì ... Uớc vọng không thành ước vọng không thành ... Câu này âm điệu được đấy, phải không? Mà nghĩa cũng đạt đấy. Được cả 3: tín-đạt-nhã. Tốt quá (mèo khen mèo!).

Và vì quá hài lòng (!) với câu dịch này, tôi phải cố ngồi hì hục dịch toàn bài để đưa lên blog đầu tiên của tôi thời yahoo 360 (blog ấy có tên là anhvukim, nếu có ai đã từng đọc). Nhưng rồi sau đó account yahoo của tôi bị mất password, nên không dùng được nữa, bỏ luôn (chưa kịp đem nội dung đi nơi khác). Sự kiện ấy tôi cũng có ghi lại trên blog này, ở đây.

Bản dịch ấy, theo tôi nhớ là cũng ... rất được rồi, mặc dù những câu sau có lẽ không hay bằng câu đầu. Và mặc dù một cậu học trò cũ của tôi, nay đang làm Tiến sĩ văn học so sánh tại Mỹ, đã chê là dịch chưa chính xác. Nó đây, nhớ như thế nào thì chép lại như thế ấy:

Ước vọng không thành

Sẽ là gì, những ước vọng không thành?

Sẽ như hoa lá úa tàn
Gượng cười trong nắng cuối xuân?
Sẽ như vết thương chưa lành
Còn đầy mủ máu hôi tanh?

Sẽ như chảo mứt qua đêm
Váng đường đóng dày trên mặt?

Hay chỉ là bao gạo nặng
Lặng im nằm bẹp góc nhà?

Hay nổ tung thành bụi cát bay xa?


Tại sao tôi lại nhớ đến bài thơ này nhỉ? Vì có một người tôi mới biết qua mạng bảo rằng có đọc blog của tôi, quan tâm đến những bài thơ tôi dịch (chà, tôi còn làm thơ nữa cơ đấy chứ không phải chỉ có dịch không thôi đâu nhé!). Nên căn bệnh "giàu trí tưởng bở" của tôi bỗng trỗi lên, và thơ con cóc (con nhái, con ễnh ương, các kiểu!) bỗng tuôn ra.

Và tự nhiên cũng có một chút ngậm ngùi thoáng qua. Cái thời hoa mộng ấy của đời người. Nó đã qua đi lâu lắm rồi, mà đôi lúc cứ ngỡ như chỉ mới đây thôi.

Những ước vọng không thành của tôi ơi, các người đâu rồi, và đã là gì rồi, trong những lựa chọn trong bài thơ của Langston Hughes?

Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2010

Lại chuyện chữ nghĩa: tiêu chí, chỉ tiêu, chỉ báo, chỉ số, tiêu chuẩn, và chuẩn mực (1)

Lý do của entry này là tôi đang đọc cuốn sách The Use of Performance Indicators in Higher Education: The Challenge of the Quality Movement của các tác giả Martin Cave, Stephen Hanney, Stephen Henkel, và Maurice Kogan (ấn bản lần thứ ba), NXB Jessica Kingsley (London 2006). Và cần phải dịch một số từ ra tiếng Việt, trong đó có từ quality indicators.

Từ indicators, có một số dịch giả chuyển sang tiếng Việt bằng từ "chỉ báo", để phân biệt nó với từ "chỉ số", tiếng Anh là index. Nếu chấp nhận cách dịch này, quality indicator sẽ được dịch sang tiếng Việt là chỉ báo chất lượng.

Phân biệt nghĩa của 2 từ này:
- index =
1. a numerical scale used to compare variables with one another or with some reference number
2. a number or ratio (a value on a scale of measurement) derived from a series of observed facts; can reveal relative changes as a function of time
list in an index
3. exponent: a mathematical notation indicating the number of times a quantity is multiplied by itself
4. an alphabetical listing of names and topics along with page numbers where they are discussed
...
Nguồn: wordnetweb.princeton.edu/perl/webwn

- indicator =
1. index: a number or ratio (a value on a scale of measurement) derived from a series of observed facts; can reveal relative changes as a function of ...
2. a signal for attracting attention
...
Nguồn: wordnetweb.princeton.edu/perl/webwn


Nhận xét: 2 từ này có thể dùng thay thế cho nhau trong 1 vài trường hợp (nghĩa đầu tiên của indicator). Sự khác biệt nằm ở nghĩa số 2 của từ indicator. Trong nghiên cứu giáo dục, người ta dùng index để chỉ một con số với một ý nghĩa nào đó (= chỉ số), và indicator để chỉ một dấu hiệu nào đó, có thể là một con số hay cũng có thể là một tập hợp nhiều con số hoặc cả từ ngữ, hình ảnh, vv; tất cả mang một ý nghĩa gì đó về một vấn đề cần tìm hiểu.

Một ví dụ: điểm trung bình môn tiếng Anh cuối học kỳ môn tiếng Anh của một sinh viên là một chỉ số, ví dụ là 4/10. Còn điểm số của nhiều môn học (đều ở mức trung bình), cộng với việc vắng mặt thường xuyên, cộng với việc sinh viên này có rất ít bạn bè cùng lớp vv, có thể là một "chỉ báo" về việc sinh viên ấy đã chọn không đúng ngành học phù hợp với mình.

Tuy nhiên, cụm từ chỉ báo chất lượng là một cụm từ không mấy thông dụng ở VN. Trên báo chí VN chỉ hay nghe nói đến các "chỉ tiêu". Chỉ tiêu chất lượng, là một từ nghe quen thuộc hơn rất nhiều so với từ chỉ báo chất lượng. Vậy 2 cụm từ này có đồng nghĩa với nhau không?

Theo tôi, tùy theo ngữ cảnh, hai cụm từ này có lúc trùng nhau về nghĩa, nhưng cũng có những chỗ khác biệt. "Chỉ báo" nói đến một thực trạng đang có, mang tính khách quan, còn chỉ tiêu có thể dùng giống chỉ báo nhưng cũng có thể dùng để chỉ một kết quả mong đợi (người ta nói: "đạt chỉ tiêu", chứ không nói "đạt chỉ báo"). Và từ này có vẻ như không có tương đương trong tiếng Anh, nên khi dịch phải dùng index, indicator, hoặc statistics, tùy theo từng trường hợp cụ thể.

Tạm thế đã, sẽ viết tiếp phần 2, 3, 4 sau!

Thứ Hai, 4 tháng 1, 2010

Phân biệt seminar, workshop, conference, symposium ...

Đây là những từ mà người Việt thường cảm thấy rất lúng túng khi sử dụng. Vì vậy mới có bài viết này trên blog của GS Nguyễn Văn Tuấn vào sáng nay. Bài gốc ở đây.

Để thuận tiện cho việc làm rõ thêm nghĩa và đóng góp ý kiến về việc dịch các từ này như lời kêu gọi của GS Nguyễn Văn Tuấn, tôi xin chép một phần từ bài viết nói trên vào phần dưới đây, sau đó sẽ đưa ra những ý kiến của riêng tôi.

Conference (hội nghị) là một cuộc họp lớn hơn seminar và workshop, với số người tham dự từ 100 đến vài chục ngàn người. Các hội đoàn chuyên môn thường có conference thường niên. Thành phần tham dự thường là hội viên, kể cả nghiên cứu sinh và các chuyên gia. Trong conference, có những bài giảng chính (keynote lectures) cho tất cả người tham dự. Ngoài bài giảng chính, conference còn có nhiều phiên họp gọi là session.

Symposium là một cuộc họp mang tính khoa bảng và nghiêm túc, với nhiều diễn giả trình bày về một hay nhiều đề tài. Số người tham dự thường ít hơn conference, nhưng cũng có thể tương đương với seminar. Các công ti dược thường có những symposium lồng trong các conferences để nhân cơ hội giới thiệu sản phẩm của họ.

Seminar là một cuộc họp mang tính giáo dục, thường thường chỉ tập trung vào một đề tài cụ thể nào đó. Người tham gia seminar bao gồm nghiên cứu sinh, học viên và các chuyên gia. Hình thức họp thường là một diễn giả nói chuyện và sau đó thảo luận. Ở Viện tôi, mỗi tuần đều có seminar về một đề tài khoa học, do các chuyên gia trong và ngoài nước được mời đến nói chuyện.

Workshop là một cuộc họp nhỏ hơn và không quá chuyên sâu như seminar. Thông thường, một workshop có khoảng 10-20 học viên, nhưng không có chuyên gia. Trong workshop có thực hành, bài tập dưới sự giám thị của người giảng (còn trong seminar thì không có bài tập).

Summit (hội nghị thượng đỉnh) là một cuộc họp của các chuyên gia hàng đầu hay các nhà lãnh đạo cao cấp nhất.

Xin được làm rõ thêm về những từ này (xin lỗi, tôi bị méo mó nghề nghiệp, do có nhiều năm giảng dạy tiếng Anh, và chuyên về biên-phiên dịch!). Tôi xin chép các định nghĩa bằng tiếng Anh của các từ này dưới đây, sau đó sẽ đề nghị cách dịch. Từ điển được dùng là Onelook Dictionary (online), sử dụng phần quick reference, và được kiểm tra lại bằng Merriam-Webster Online Dictionary (phần in nghiêng trong ngoặc).

1. conference: a prearranged meeting for consultation or exchange of information or discussion (especially one with a formal agenda)
(a usually formal interchange of views)

2. symposium: a meeting or conference for the public discussion of some topic especially one in which the participants form an audience and make presentations
(a formal meeting at which several specialists deliver short addresses on a topic or on related topics)

3. seminar: (a) a course offered for a small group of advanced students; (b) any meeting for an exchange of ideas
(an advanced or graduate course often featuring informality and discussion)

4. workshop: a brief intensive course for a small group; emphasizes problem solving
(a usually brief intensive educational program for a relatively small group of people that focuses especially on techniques and skills in a particular field).

Đọc các định nghĩa bằng tiếng Anh, kết hợp với phần trích dẫn của GS Nguyễn Văn Tuấn, có thể thấy các từ này đều có nghĩa một cuộc họp nhiều người, có sự trao đổi ý kiến về một vấn đề gì đó. Những nét nghĩa chính có thể giúp phân biệt các từ này như sau:

1. trịnh trọng hay thân mật: conference và symposium thuộc loại trình trọng, seminar và workshop thuộc loại thân mật hơn

2. quy mô - tức số người tham dự nhiều hay ít: conference có quy mô lớn nhất, hàng trăm người, symposium thì quy mô lớn hoặc nhỏ, hai từ còn lại có quy mô nhỏ tương đương nhau, chừng vài chục người

3. vai trò của các đối tượng tham dự (đến nghe hay đến trình bày): symposium chỉ gồm người trình bày (trừ các khách mời, không tính), đều là chuyên gia, nghe lẫn nhau; conference và seminar thì có một hoặc một số nhỏ người trình bày, những người khác nghe; còn workshop có thể không có người trình bày mà chỉ là những người làm việc chung với nhau để giải quyết một vấn đề gì đó, có người hướng dẫn

Bây giờ đến việc dịch. Ở VN, có các từ sau: hội nghị, hội thảo, diễn đàn, (nói chuyện) chuyên đề, và tập huấn. Tôi đề nghị dịch như sau: conference là hội nghị hoặc hội thảo (có nghĩa hơi khác nhau chút), symposium là diễn đàn hoặc hội nghị chuyên gia, seminar là nói chuyện chuyên đề, và workshop là hội thảo tập huấn.

Xin gửi đến mọi nguời đọc và góp ý! Đặc biệt là GS Ngyễn Văn Tuấn!

Chủ Nhật, 13 tháng 12, 2009

Nhân dịch từ "research paradigm", nghĩ vẩn vơ về ngôn ngữ, tư duy, triết học và khoa học

Research paradigm dịch sang tiếng Việt là gì nhỉ?

Tôi viết entry này vì đang tìm cách dịch từ research paradigm để tiếp tục một cuộc trao đổi nho nhỏ thú vị với bạn bè. Và viết với nhiều mục đích, trong đó trước hết là một mục đích "vị kỷ". Tôi vốn là dân humanities (nhân văn), thích văn chương, sáng tác, và cũng thích ngôn ngữ, lý luận hàn lâm, nghiên cứu.

Nói thế để chuẩn bị giải thích về việc tôi sắp làm, đó là câu nệ câu chữ khi dịch tài liệu tiếng nước ngoài ra tiếng Việt. Tôi biết nhiều người không phải dân văn chương ngôn ngữ sẽ thấy mất thì giờ khi chúng tôi bẻ câu bẻ chữ như thế này. Nhưng đối với bọn tôi, thì ngôn ngữ có lẽ là tất cả: là công cụ tư duy, là đối tượng và khách thể nghiên cứu, và là công cụ bày tỏ, diễn đạt kết quả nghiên cứu của mình. Là alpha và omega!

Ngoài mục đích vị kỷ, làm vì mình thích làm, tôi cũng có một mục đích "vị tha" hơn, là giúp mọi người, ít ra là sinh viên của tôi, hiểu đúng, nói đúng (khi cần chuyển ngữ giữa 2 tiếng Anh và tiếng Việt), và tư duy đúng (tôi tin thế, vì tư duy mạch lạc bắt đầu bằng việc có các định nghĩa rõ ràng - cái này có liên quan đến bản thể luận phải không bác Hải?)

Nhiều sinh viên của tôi sau khi học môn Phương pháp (luận) nghiên cứu (khoa học) (research methodology) nói với tôi rằng, chẳng hiểu gì ráo, cuối cùng chỉ còn nhớ có gặp hai từ là qualitative (định tính) và quantitative (định lượng) mà thôi. Còn tại sao 2 từ này lại quan trọng thế, thì hoàn toàn không hiểu!

Còn tôi, thì khi giảng bài, hoặc hướng dẫn luận văn, vẫn luôn kêu la rằng, các bạn thiếu nhiều quá, nhiều quá! Nói như thế, có lẽ là hơi vô trách nhiệm, vì nói theo kiểu VN, thì có dốt mới đi học, chứ giỏi rồi còn đi học gì nữa. Nhưng mà ... thực sự là các bạn thiếu rất nhiều! Mà cái thiếu lớn nhất, theo tôi, là thiếu hiểu biết về triết học!

Cái gọi là triết học mà các bạn học chỉ tập trung vào có một chủ thuyết duy nhất thôi, đó là triết học của Marx. Mà như thế thì rất chưa đủ. Đó là chưa kể việc dạy triết học của Marx trong trường hiện nay cũng chưa phải là hoàn hảo. Về việc này các bạn đọc một số bài trên blog của BS Hồ Hải thì rõ. Địa chỉ blog: http://www.bshohai.blogspot.com.

Quay trở lại câu hỏi ban đầu: research paradigm dịch là gì?
Câu trả lời đây - xin lỗi đã bắt các bạn chờ lâu: có thể dịch nó là "trường phái nghiên cứu" các bạn ạ! Và đây là một yêu cầu cơ bản khi bắt đầu nghiên cứu: ít nhất bạn cũng phải nói được là mình thuộc trường phái nào chứ, phải không?

Có lẽ sẽ có rất nhiều cách phân loại, nhưng tôi thích cách phân loại này (link: http://www.celt.mmu.ac.uk/researchmethods/Modules/Selection_of_methodology/index.php).

Dưới đây tôi xin tóm tắt và diễn giải thêm một vài điểm:

- Nghiên cứu cần bắt đầu bằng cách chọn một trường phái nghiên cứu (tức research paradigm - như trong bài viết trước của tôi, thì trường phái nghiên cứu, hay hệ thuyết nghiên cứu, bao gồm 3 yếu tố: bản thể luận, hay quan điểm về bản chất của các hiện tượng nghiên cứu; khoa học luận hoặc nhận thức luận, tức quan điểm về việc làm sao có thể hiểu biết về các hiện tượng cần nghiên cứu; và phương pháp luận, tức kế hoạch về con đường cụ thể dẫn mình đến câu trả lời hoặc giải pháp cần có)

- Hai trường phái nghiên cứu cơ bản, đại diện cho 2 lãnh vực khoa học ở hai cực đối lập với nhau là khoa học (science) và nghệ thuật (art), là positivism (thực chứng luận, hay chủ nghĩa thực chứng) và anti-positivism hoặc constructivism mà tôi tạm dịch là phi thực chứng luậnkiến tạo luận, hay thuyết kiến tạo.

- Cốt lõi tư tưởng của thực chứng luận có thể tóm tắt trong một câu là "ngoài kia có một thế giới khách quan, độc lập với kinh nghiệm của con người, và ta có thể nhận thức ra nó bằng cách quan sát, đo đạc, hoặc sờ vào nó". Ngược lại với nó là quan điểm kiến tạo, tức sự vật không tồn tại khách quan mà phụ thuộc vào sự trải nghiệm và tư duy của con người, theo kiểu "con người tạo ra thượng đế" (vì mình nghĩ là có thượng đế, nên mới có cái gọi là thượng đế).

- Từ hai quan điểm trên, ta có hai cách tiếp cận nghiên cứu (research approach) chính là định lượng (dành cho quan điểm thực chứng) và định tính (dành cho quan điểm phi thực chứng, hay quan điểm kiến tạo).

- Mỗi cách tiếp cận nói trên (mà theo tôi hiểu thì nó chính là vấn đề nhận thức luận, phải không bác Hải) sẽ có nhiều phương pháp cụ thể (methods) khác nhau. Ví dụ theo cách tiếp cận định lượng thì sẽ làm điều tra (survey), thực nghiệm (experimental), hoặc phương pháp tương quan (correlational). Và rất cần hiểu biết về thống kê để làm cho đúng! Còn làm định tính thì thường là case study (tôi dịch là điển cứu), phương pháp dân tộc học (ethnographic) - tức cùng ăn cùng ở cùng làm, quan sát, trao đổi tuơng tác, ghi chép rồi sau đó diễn giải ra các ý nghĩa, và phương pháp hiện tượng học (cái này tôi không rành, phải tìm hiểu thêm, và học hỏi ở các bạn bè đồng nghiệp khác).

- Riêng khoa học xã hội (social sciences) thì nó nằm giữa art và science, nên nó có khi sử dụng trường phái này, có khi sử dụng trường phái kia. Nói thêm: ngày nay người ta có khuynh hướng kết hợp cả hai trường phái trong nghiên cứu khoa học chứ không còn sử dụng đơn thuần một trường phái nào. Và khoa học xã hội bao gồm: kinh tế, giáo dục, xã hội học (sociology), và một số ngành khác. Khoa học nhân văn, hay là art, bao gồm triết học, văn chương, ngôn ngữ, mỹ thuật, vv. Cũng nói thêm: hiện nay có hiện tượng xóa nhòa ranh giới giữa khoa học xã hội và khoa học nhân văn.

--
Wow! Tôi cũng không ngờ mình có hứng để viết một mạch được dài như thế. Hứng này có được do trao đổi, tranh luận với bạn bè, cho nên rất cám ơn các người bạn của tôi đã cho tôi cảm hứng.

Tôi muốn nói thêm một chút để giải thích cái tựa của entry này. Tôi nghĩ, muốn tư duy tốt trước hết phải có năng lực ngôn ngữ, mà quan trọng nhất là trong việc sử dụng thuật ngữ. Ví dụ triết học là triết học, mà chính trị học là chính trị học. Hối lộ là hối lộ, chứ không phải là "quà biếu trên mức tình cảm". Khi có ngôn ngữ chính xác, và tư duy tốt rồi, thì học triết chắc không có gì khó khăn lắm. Và có nền tảng triết học tốt, thì làm việc gì cũng sẽ tốt, và chắc chắn là nghiên cứu tốt. Mà tất cả những điều này bắt đầu ở trong trường, ngay từ những lớp nhỏ. Có phải vậy không bác Hải?

Còn phần ở trên là tóm tắt và diễn giải của tôi với cái Table 1 ở trong bài viết bằng tiếng Anh mà tôi giới thiệu ở trên, hy vọng giúp ích cho các bạn sinh viên ít nhiều khi đọc sách và làm nghiên cứu. Tôi cũng biết tật của mình là nói lằng nhằng khó hiểu. Có lẽ một phần do tôi nghĩ nhanh quá. Hoặc cũng có thể do đầu óc rối rắm quá ;-).

Và hy vọng các bạn đọc xong không bị nhức đầu! Nhưng nếu nhức đầu, thì ... cũng ráng chịu thôi! ;-)

Còn bạn nào không nhức đầu mà vẫn thích thú thì nên đọc thêm cái này.
Link: http://diendankienthuc.net/diendan/showthread.php?t=5553.
Enjoy!

Lại nói chuyện dịch: Ontology, epistemology, methodology, phenomenology, research paradigm, and other terms

Gửi các bạn sinh viên cao học của tôi

Mấy từ tôi mới viết ra là những từ mà một sinh viên cao học nào (well, ít ra trong lãnh vực social sciences and humanities) cũng sẽ gặp khi đọc tài liệu bằng tiếng Anh về phương pháp nghiên cứu khoa học. Nó cũng là những từ mà GS Fran Hoffmann đưa vào list vocabulary mà bà ấy dạy cho lớp Nghiên cứu khoa học mà tôi đang tổ chức tại ĐHQG.

Và chắc chắn là những từ này rất là threatening đối với sinh viên! Nên để cho nó student-friendly (!), trước hết là phải dịch nó ra tiếng Việt. Vây thì đây, dịch theo những cái tôi đã biết (cũng chẳng rõ học từ đâu, vì đa số là tự học mà!):

Ontology = bản thể luận;
Epistemology = nhận thức luận (có nơi gọi là khoa học luận)
Methodology = phương pháp luận
Phenomenology = hiện tượng học
Research paradigm = mô thức nghiên cứu


Nhưng tất nhiên dịch xong thì ... vẫn như không, vì vẫn chưa hiểu những bản thể luận, nhận thức luận, hiện tượng học, mô thức nghiên cứu ấy nó là cái gì. Vậy thì xin đọc bằng tiếng Anh tại đây.

Link: http://www.ul.edu.lb/fthm/papers/3rd%20Axis/Methodology%20greece.doc

Nếu vẫn không hiểu, có thể đọc bằng tiếng Việt, đã được viết cho người bình dân (!), ở đây. Link: http://bshohai.blogspot.com/2009/12/noi-chuyen-triet-hoc-cua-nguoi-ngoai-ao_12.html

Còn dưới đây thì xin cung cấp thêm một vài phần trích dịch từ bài viết bằng tiếng Anh mà tôi cho là đã rất rõ ràng dễ hiểu lắm rồi, nếu không hiểu có lẽ là do nhai chưa kỹ, cố gắng nhai rồi sẽ thấy nó ngon các bạn ạ!

Đây:
Abstract
There is a great number of issues related to the philosophical design and methodological approach that the researcher has to take into consideration beginning a research [...]. The nature of reality and the nature of knowledge have significant impacts in the research design. Such philosophical issues need to be addressed explicitly since they shape the choice of research instruments.

Tóm tắt
Có khá nhiều vấn đề liên quan đến khía cạnh triết lý của thiết kế và cách tiếp cận về phương pháp luận mà một nhà nghiên cứu cần phải quan tâm trước khi bắt đầu một đề tài nghiên cứu [...]. Bản chất của hiện thực và bản chất của tri thức có ảnh hưởng lớn đến thiết kế nghiên cứu. Những vấn đề triết học như vậy cần được đề cập đến một cách tường minh vì chúng sẽ quyết định việc lựa chọn công cụ nghiên cứu.


(đọc xong, chẳng hiểu gì hết phải không các bạn?)

Vậy thì tiếp nữa:
According to Denzin and Lincoln (1994), paradigm is the basic set of beliefs that guide action that can be viewed as consisting of three main elements: ontology, epistemology and methodology.

Theo Denzin và Lincoln (1994), mô thức là một bộ các niềm tin hướng dẫn hành động mà ta có thể xem là bao gồm 3 yếu tố: bản thể luận, nhận thức luận, và phương pháp luận.

Epistemology refers to the question of how we know the world. It looks at the relationship between the inquirer and what can be known by direct observation at the external world to uncover knowledge or when the observer and the subject of inquiry must interact to create knowledge.

Nhận thức luận nói về việc chúng ta hiểu biết thế giới này bằng cách nào. Nó nhìn vào mối liên hệ giữa người nghiên cứu và cái mà người đó có thể biết được thông qua quan sát trực tiếp thế giới bên ngoài để khám phá ra tri thức, hay khi người quan sát phải tương tác với khách thể nghiên cứu để tạo ra tri thức.

(Phần trên là dịch chữ, word-for-word translation, khó hiểu quá phải không. Xin dịch lại ra ngôn ngữ bình dân cho dễ hiểu:

Nhận thức luận là một quan điểm giúp ta trả lời câu hỏi "làm sao mình biết được điều đó?". Có phải chỉ cần quan sát rồi sẽ biết, hay là phải tương tác với nó rồi mới biết?

Chẳng hạn, để trả lời câu hỏi "anh ấy có yêu mình không?", có cô gái sẽ tin rằng "cứ chờ xem đến ngày sinh nhật của mình anh ấy có tặng hoa không, đi chơi chung anh ấy có trả tiền không, anh ấy có chiều mình không" là biết ngay. Còn có cô thì tin rằng những cái ấy chỉ là làm màu mà thôi, chưa thể biết được, phải "sống lâu mới biết đêm dài"! Đại khái thế.)


Tạm thời thế. Sẽ viết tiếp cho các bạn sau nhé, bây giờ bắt đọc nữa chắc là hết "dzô" rồi!
--

Viết tiếp một chút:

Về từ paradigm, nếu dịch là "mô thức" thì có lẽ chưa tốt lắm (các bạn xem comment của BS Hồ Hải bên dưới), nên có lẽ sẽ nghĩ lại. Một từ khác đã được dùng để dịch paradigm là hệ thuyết; từ này có vẻ rõ nghĩa hơn (hệ thuyết = hệ thống lý thuyết), nhưng "hệ thuyết nghiên cứu" nghe "hàn lâm, kinh viện", tối tăm quá. Tôi đang nghĩ đến từ "trường phái nghiên cứu", không biết dùng ở đây có phù hợp không (trong tiếng Anh, "trường phái" được dịch là "school").

Sẽ nghĩ thêm. Chân lý là một cuộc hành trình bất tận. Nên cô PA viết sách mãi có bao giờ xong đâu ;-). Công trình nào cũng thành Cầu Giần Xây hết (tức là xây dần dần ấy các bạn ạ - cái này là ông xã tôi nói đấy!)

Thứ Tư, 18 tháng 11, 2009

Nghĩa của từ service, và sự nhập nhằng công tư tại VN!

Một người bạn (ừ thì cứ tạm gọi thế, ấy là tôi xem là bạn, còn vị ấy có xem tôi là bạn không thì phải chờ sự xác nhận từ vị ấy;-) của tôi là bác sĩ đang viết về việc cải tổ quản lý y tế ở VN, cho rằng ở VN ngành y được xem là ngành cứu người, còn ở các nước tiên tiến trên thế giới thì họ xem đấy là một dịch vụ (theo nghĩa: sử dụng thì phải trả tiền). Và chính đây là cốt lõi, nguồn gốc của mọi sự khác biệt về chất lượng, về cách hành xử, về quan hệ bệnh nhân - bác sĩ, giữa VN và các nước tiên tiến.

Mặc dù đồng ý với bác ấy gần như là hoàn toàn, tôi vẫn có băn khoăn ở một diều, là ở đây sự khác biệt về quan điểm còn có nguồn gốc từ sự khác biệt về ngôn ngữ nữa. Bởi thật ra, nếu trong tiếng Việt phục vụ (vô vụ lợi, usually) và dịch vụ (ăn bánh trả tiền ;-)) là hai từ khác nhau, và có nghĩa đen lẫn nghĩa biểu cảm có khác nhau, nhưng trong tiếng Anh thì cả 2 từ này đều chỉ dịch ra cùng một từ service mà thôi!!!!

Nói có sách, mách có chứng! Dưới đây là những định nghĩa của từ service

Những định nghĩa của service trên Web bằng Tiếng Anh

1. work done by one person or group that benefits another; "budget separately for goods and services" (hàng hóa dịch vụ)

2. an act of help or assistance; "he did them a service" (ở đây service rõ ràng chỉ là giúp, hỗ trợ --> vô vụ lợi, "cứu tế")

3. the act of public worship following prescribed rules; "the Sunday service" (nếu là dân có đạo, các bạn sẽ biết ngay từ service này dịch là mục vụ, tức sự phục vụ của các người chăn chiên, rõ ràng là vô vụ lợi - ít ra là không thu tiền một cách bắt buộc, còn có lợi gì hay không thì có khi phải hỏi an ninh họ xác nhận cho mới biết được, âm mưu của đế quốc thì dân thường như PA làm sao có nghề mà biết!!!!)

4. a company or agency that performs a public service; subject to government regulation (từ này dịch là Sở, Phòng, Ban ngành vv, không có vụ ăn bánh trả tiền ở đây - có đưa dưới gầm bàn hay không thì tớ không biết đâu nhé!)

5. employment in or work for another; "he retired after 30 years of service"
(service rõ ràng là phục vụ: anh ấy nghỉ hưu sau 30 năm phục vụ!!!!)

6. military service: a force that is a branch of the armed forces - nghĩa vụ quân sự????


(các định nghĩa này lấy từ trang web lừng lẫy của Wordnet - hôm nào khác sẽ phải có entry về wordnet mới được!) link đây: wordnetweb.princeton.edu/perl/webwn

Từ đó, một câu hỏi đặt ra cho vị bác sĩ bạn (nhận vơ ;-)) của tôi là, tại sao sự nhập nhằng, công không ra công tư không ra tư, phục vụ không ra phục vụ mà dịch vụ cũng chẳng ra dịch vụ, lẽ ra phải xảy ra trong các nước nói tiếng Anh vì ngôn ngữ của nó nhập nhằng thế, (ngôn ngữ là công cụ tư duy và cũng là cái khuôn buộc ta phải tư duy ở trong đó, theo thuyết định mệnh trong ngôn ngữ: anh suy nghĩ bằng ngôn ngữ đó thì anh chỉ có thể nghĩ được đến thế mà thôi????). Nhưng không, nó lại xảy ra ở VN!!!

Vậy, chuyện gì đang xảy ra ở đây? Giả thuyết của tôi: VN là thiên tài trong việc nói "dzậy" mà không phải "dzậy"????

Tôi lúng túng lắm các bác ạ!!!!

Thứ Hai, 9 tháng 11, 2009

Lại nói về việc dịch: (the) common good, (the) public good, a public good (public goods)!

Tình cờ đọc một tựa bài viết trên SciDev.net có cụm từ public good (nguyên văn: clean technology as a public good), lại nhớ đến một cuộc tranh cãi mệt mỏi với một đồng nghiệp về cách dịch từ này, nên ghi lại ở đây vài ý để chính mình nhớ, và chia sẻ với những ai ... không may láng cháng đến trang blog này của mình.

Nếu ai tra nghĩa của cụm từ public good sẽ thấy nó có một số nghĩa khác nhau, ví dụ như những định nghĩa sau theo trang search của google:

Definitions of Public good on the Web:

In economics, a public good is a good that is non-rivaled and non-excludable. This means, respectively, that consumption of the good by one individual does not reduce availability of the good for consumption by others; and that no one can be effectively excluded from using the good. ...
en.wikipedia.org/wiki/Public_good

The general welfare of the people; the best interests of the community
en.wiktionary.org/wiki/public_good

A good that cannot be charged for in relation to use (like the view of a park or survival of a species), so there is no incentive to produce or maintain the good. ...
www.economics.noaa.gov/

a good, such as national defense, that costs little or nothing for an extra individual to enjoy and the costs of preventing any individual from the enjoyment of which are high; public goods have the properties of nonrivalrous consumption and nonexcludability.
www2.wwnorton.com/college/econ/stec3/economics/glossary.htm

A pure public good is characterized by its nonexclusive nature: anyone can benefit from it, and a person's use of the good does not diminish ...
www.minneapolisfed.org/community_education/student/essay/topics/gloss97.cfm

a good or service that has the characteristics of non-rivalry in consumption and non-excludability (chapter 15)
www.johnwiley.com.au/highered/eco2e/micro/student-res/glossary.html

a good or service that is provided to the public without profit
libraryclass103.wordpress.com/2009/01/20/definitions-set-1/


những chỗ in đậm (bold) là mình mới thêm vào để nhấn mạnh. cần lưu ý: public good có khi được đối xử như một từ đếm được (a good, goods), và có khi được đối xử như một từ không đếm được (chỉ dùng the ... good - giống như the young, the old, the ugly vv).

và rắc rối chính là ở chỗ này đây. khi dùng đếm được, thì phải dịch là hàng hóa, dịch vụ (các định nghĩa ở trên đã làm rõ), còn khi không đếm được, thì phải dùng với nghĩa ích lợi (và có thể dùng the public good hoặc the common good, nghĩa giống nhau, cả hai đều dịch là công ích).

chỉ có vậy thôi, ai không tin cứ dùng ngữ học dữ liệu mà kiểm tra (có thể kiểm tra trên google, ai không rõ cách làm thì hỏi chủ nhân của blog này). thế mà mình lại xui xẻo, bị một người biết một mà không biết hai, chê rằng là mình không đúng mà lại còn dám sửa người khác!

thế nên mới nói dịch là một nghề rất là thù địch, có thể bị phục binh bất cứ nơi nào!

dịch mà không phản, ấy mới là dịch vậy!

Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2009

Ghi chép về việc ... dịch!

Dịch là một việc làm rất ... thù địch!

Thật vậy, quân thù ẩn nấp khắp nơi (phục binh), và ta luôn luôn có thể bị ... đánh úp bất cứ lúc nào!

Đơn cử một ví dụ: hôm nọ đi ăn cơm với khách, lúc tráng miệng có món trái cây thập cẩm, bình thường thì chỉ có dưa hấu (water melon! - well, phải văn ôn vũ luyện chứ nếu không thì khi cần lại quên béng chứ chẳng chơi!), thơm (pineapple!), và có lẽ thường là có bưởi (grape fruit!), hoặc chuối (bannana - well I'm not very sure about the spelling, will have to check), thì tự nhiên hôm ấy trên đĩa trái cây lại xuất hiện thêm một món, là ... củ sắn (????).

Về nhà, kể điều này với con gái 12 tuổi, vốn là một cô bé xem mẹ là nhất thế giới (!) về mọi mặt (?), nhưng nhất là về tiếng Anh (còn phải nói!), thì con bé trả lời ngon lành: tiếng Anh là yam bean! Và tất nhiên là mẹ không tin!

Tra tự điển thì chắc là không có, hoặc cũng khó mà đúng (đúng hơn là khó biết đúng sai), nên PAnh ta bèn tra mạng (trăm năm trong cõi người ta, cái gì không biết thì tra google mà lại!), và ... quả nhiên nó là yam bean!!!!

The moral of this: keep learning (even if it's from your daughter!), and of course, keep reviewing!

Còn hôm nay thì có từ này dịch từ Việt sang Anh đây, ghi lên luôn để cho nó ... nhớ:

paradigm dịch ra tiếng Việt là gì?
một vài từ tương đương tìm thấy trên mạng:
mô thức, hệ thuyết (paradigm shift = chuyển đổi hệ thuyết), khung mẫu, mô hình, hệ hình (!), vv. PAnh ta chọn "mô thức" vì thấy ... nó có vẻ hợp với những gì mình hay gặp với từ paradigm này.

vậy, anh em ơi, paradigm là mô thức, mà mô thức là paradigm nhé! nhớ lấy để đề phòng bị ... đánh úp trong tương lai!

Thứ Sáu, 23 tháng 1, 2009

Barrack Obama CHỈ phụng sự VĂN PHÒNG tổng thống Mỹ?

"Tôi, Barrack Hussein Obama, long trọng tuyên thệ rằng tôi sẽ phụng sự trung thành Văn phòng Tổng thống Mỹ ..."

Đây là câu tuyên thệ nổi tiếng mà bất kỳ tân tổng thống Mỹ nào cũng phải đọc, và vừa được Barrack Obama đọc vào ngày 20.1.09, được dịch ra tiếng Việt như trên. Khi nghe câu này trên TV, ông xã tôi, một người mà trình độ tiếng Anh có thể được liệt vào hàng ... ngoại hạng (tức không có hạng nào hết, kể cả hạng thấp nhất!!!) đã kêu lên: "câu này kỳ quá; sao lại phụng sự văn phòng tổng thống Mỹ? chắc là dịch sai rồi đó!"

Thì quả là dịch sai! trong lời tuyên thệ đó, mà nguyên văn tiếng Anh là "I will execute faithfully the office of president of the United States", các từ "office of president of the US", đã được dịch theo lối ghép từng chữ, và tất nhiên là ghép từng chữ thì sẽ sai! bởi vì office ngoài nghĩa văn phòng (là nghĩa mà tất cả các người học VN đều được dạy từ lớp ... 8?), còn có nghĩa quan trọng hơn, và thường gặp hơn trong các văn bản chính trị, ngoại giao, là "nhiệm vụ" hay "chức vụ"!!!!

Từ office với nghĩa nhiệm vụ không có gì là mới lạ cả. ai cũng biết cụm từ "term of office" có nghĩa là "nhiệm kỳ", và "in office" vẫn luôn được dịch là "đương nhiệm". Cho nên câu dịch đúng phải là "Tôi, Barrack Hussein Obama, long trọng tuyên thệ rằng tôi sẽ TRUNG THÀNH THỰC THI NHIỆM VỤ LÀM TỔNG THỐNG NƯỚC MỸ ..." chứ không phải là chỉ phụng sự cái văn phòng gồm chừng đâu vài trăm người mà thôi (!!!!, vì nếu thế thì ông ấy chỉ là ... quản gia cho tòa Bạch Ốc mà thôi, chứ đâu phải là tổng thống Mỹ!!!!

Nhưng cũng lạ, tại sao một người có trình độ tiếng Anh ngoại hạng (!) như ông xã tôi chỉ cần sử dụng common sense cũng còn biết câu này dịch sai, mà những con người giỏi giang làm việc ở đài truyền hình, ở thông tấn xã, vv lại không phát hiện ra??????

Bởi vì hôm nay, phát biểu được dịch sai sang tiếng Việt này lại được đăng nguyên văn ở một cái tin rất lớn trên trang 8 của Báo SGGP!!!! Điều này nên được hiểu như thế nào đây?????????? nghĩ sơ sơ cũng có thể nêu ra được 3 cách lý giải dưới đây:

1. trình độ tiếng Anh nói chung của VN rất kém --> cái này đã rõ, và nguyên nhân chắc là ... ngành giáo dục phải chịu?
2. tư duy của người viết bài, biên tập viên, độc giả vv rất thiếu nhạy bén --> cũng là kết quả của giáo dục???
3. khả năng tự tra cứu, tìm thông tin vv, nói tóm gọn lại là kỹ năng tự học (study skills) và kỹ năng thông tin (information skills) của người VN nói chung cũng rất kém --> tại ... giáo dục????


ôi trời ơi là trời, tôi là người tự hào hơn 25 năm trong ngành giáo dục, mà lại chính là ngành giảng dạy và kiểm tra trình độ tiếng Anh mới khổ chứ!!!!! vậy hóa ra là chính là ... lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng!!!!

đành viết mấy giòng trên blog để chia sẻ với mọi người, để bù đắp vào cái trách nhiệm đã bị thiếu trong thời gian đi dạy, chắc thế!!!

và dưới đây là nguyên văn lời tuyên thệ lấy từ trên web:


Each president recites the following oath, in accordance with Article II, Section I of the U.S. Constitution:

"I do solemnly swear (or affirm) that I will faithfully execute the office of President of the United States, and will to the best of my ability, preserve, protect and defend the Constitution of the United States."

nói thêm: tuyên thệ nhậm chức tiếng Anh là oath of office, cũng có từ office với nghĩa là nhiệm vụ, chức vụ đấy!!!