Hiển thị các bài đăng có nhãn uni admission. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn uni admission. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 9 tháng 3, 2010

Hai bài phỏng vấn PA trên báo Đất Việt

Hôm nay tôi nhận được tin từ PV của Báo Đất Việt cho biết có hai bài viết có sử dụng ý kiến của tôi. Hai bài đó, ở đâyở đây.

Tôi chưa đọc lại, hy vọng là ý kiến của tôi không bị sai lệch khi được lọc qua lăng kính của PV. Cứ đưa lên đây để lưu cho mình, và cho bạn bè, những người thường ra vào blog này. Và cũng để ... khoe một tí :-). Bởi vì, là một trí thức (well I believe so, hopefully mọi người không phản đối!) ;-), thì điều làm cho người ta sung sướng, tự hào nhất, là được quyền có ý kiến, và có người nghe. Nếu không phải lãnh đạo lắng nghe và thực hiện, thì ít ra cũng được đưa ra công luận.

Xin mọi người đọc và có ý kiến để cùng chia sẻ nhé!

Chủ Nhật, 21 tháng 12, 2008

Tin 16: Theo Tuổi Trẻ

http://www.saigonnet.vn/sncdetailnews.aspx?Item=57251&Kind=11

Tin 14: Theo Dân Trí

http://www.tinmoi.vn/index.php/giaoduc/ldquo-bo-khong-nen-om-mai-chuyen-tuyen-sinh-rdquo/75482.sn

Tin 13

Chưa tìm được 'lời giải' cho đổi mới tuyển sinh ĐH, CĐ
Cập nhật lúc : 8:28 AM, 20/12/2008

http://www.baodatviet.vn/Home/Chua-tim-duoc-loi-giai-cho-doi-moi-tuyen-sinh-DH-CD/200812/24917.datviet

Bỏ thi “ba chung” hay không? Có thể sử dụng kết quả kỳ thi THPT guốc gia để xét tuyển ĐH, CĐ? Chọn mô hình xét tuyển nào nếu bỏ kỳ thi tuyển sinh ĐH?… Đó là những câu hỏi "nóng" tại Hội thảo “Đổi mới tuyển sinh ĐH-CĐ tại Việt Nam” tổ chức tại ĐH Quốc gia TP HCM ngày 19/12.

Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Kim Hồng, Phó hiệu trưởng ĐH Sư phạm TP HCM, cho rằng Bộ GD-ĐT cũng đang mâu thuẫn trong việc xác định nên hay không nên tổ chức một kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia và dùng kết quả đó để xét tuyển vào ĐH, CĐ.

Bộ GD-ĐT không nhất quán

Bà Kim Hồng nói: “Kỳ tuyển sinh năm 2008, tôi thông báo với cán bộ coi thi và thí sinh có thể đây là kỳ thi tuyển sinh cuối cùng. Sau đó bộ thông báo lại là năm 2009, giờ chẳng biết có không nữa?”.

Đồng tình với ý kiến trên, Tiến sĩ Nguyễn Đức Nghĩa, Phó giám đốc ĐH Quốc gia TP HCM, bổ sung: “Năm 2008 đã có thể là kỳ thi cuối cùng. Giờ 2009 cũng có thể. Cứ thế này chẳng biết bao giờ mới chính thức”.

Ớ khía cạnh khác, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng, Trưởng phòng Đào tạo ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP HCM ủng hộ tuyển sinh “ba chung” của Bộ GD-ĐT từ năm 2002 đến nay, vì các trường không phải lo in sao đề thi, chỉ lo tổ chức thi. Tuy nhiên, cũng chính vì “ba chung” mà Bộ GD-ĐT lo hết, các ĐH, CĐ không được tự chủ. Để cải tiến công tác tuyển sinh và nâng cao chất lượng, Tiến sĩ Dũng đưa ra đề nghị: “Bộ phải nhả ra, không nên cứ ôm khư khư. Hãy để cho các trường tự chủ, bộ chỉ quản lý, theo dõi, đánh giá mà thôi”.


Vấn nạn 'gửi gắm' và tiêu cực sẽ càng trầm trọng khi căn cứ vào bằng tốt nghiệp THPT hay học bạ THPT để xét tuyển vào ĐH, CĐ. Ảnh: Lê Hưng


Ngoài ra, chính các chính sách không nhất quán của Bộ GD-ĐT cũng làm cho tình hình thêm phức tạp. Nhiều đại biểu cho rằng việc bộ kêu gọi phân luồng học sinh, nhưng lại cấm học sinh trường nghề thi ĐH, CĐ năm 2009 là một minh chứng. Tiến sĩ Đức Nghĩa nhìn nhận: “Chúng ta đang cố gắng phân luồng học sinh học nghề để đáp ứng nhu cầu lao động của xã hội, của công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Giờ cấm thì đố học sinh nào dám theo học”.

Băn khoăn phương thức tuyển sinh sau năm 2009

Theo Tiến sĩ Lê Khắc Cường, Trưởng phòng Đào tạo ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn TP HCM, hình thức “ba chung” đang thực hiện dẫu chưa phải đã nhận được sự đồng thuận hoàn toàn của các trường và toàn xã hội, song nó có những ưu điểm không thể bác bỏ. “Ưu điểm nổi bật nhất là giúp chúng ta có một đánh giá khá chính xác về mặt bằng học vấn của thí sinh trên cả nước”, Tiến sĩ Khắc Cường nhấn mạnh.

Tuy nhiên, cũng có không ít đại biểu nhìn nhận hình thức này đã lỗi thời, bộc lộ nhiều hạn chế. Do vậy, vấn đề được quan tâm và bàn thảo nhiều nhất tại hội thảo là nên hay không nên có một kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia, hay vẫn tổ chức thi tuyển sinh ĐH, CĐ bằng nhiều hình thức khác nhau.

Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, Hiệu trưởng ĐH Dân lập Hồng Bàng, cho rằng: “Không nên bàn cãi nữa, hãy bãi bỏ kỳ thi tuyển sinh, lấy kết quả tốt nghiệp THPT mà xét tuyển”. Tuy nhiên, đại biểu đến từ các trường công lập hay các trường có chất lượng đầu vào cao lại nhìn nhận khác. Vấn đề đáng lo ngại nhất là chất lượng kỳ thi tốt nghiệp THPT. Vấn nạn “gửi gắm” và tiêu cực sẽ càng trầm trọng khi căn cứ vào bằng tốt nghiệp THPT hay học bạ THPT để xét tuyển vào ĐH, CĐ …

Tiến sĩ Nguyễn Đức Nghĩa cho rằng muốn thay đổi thì cần phải có lộ trình, thời gian và sự chuẩn bị. “Nếu bỏ “ba chung” ngay, hay chỉ tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia ngay thì học sinh sẽ loạn khi đăng ký, còn các trường sẽ loạn khi tranh giành học sinh”, ông Nghĩa nhấn mạnh.

Thế Phương

Tin 12

Hội thảo khoa học “Đổi mới tuyển sinh Đại học và Cao đẳng tại Việt Nam”
20/12/2008

http://nguoidaibieu.com.vn/Trangchu/VN/tabid/66/CatID/53/ContentID/58879/Default.aspx

Hôm qua, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội thảo khoa học “Đổi mới tuyển sinh Đại học và Cao đẳng tại Việt Nam”, với sự tham dự của đông đảo các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu về giáo dục đại học ở Việt Nam.
Hội thảo đã nêu các kinh nghiệm về tuyển sinh ĐH, CĐ ở các nước có nền giáo dục đại học phát triển như: Hoa Kỳ, Nga, Hà Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc,.. nhằm đưa ra những giải pháp khả thi cho công tác tuyển sinh ĐH, CĐ ở Việt Nam.
Từ những kinh nghiệm đó, các đại biểu đã nêu lên nhiều kiến nghị, góp ý cho việc đổi mới công tác tuyển sinh ĐH, CĐ tại Việt Nam. Trong đó thống nhất với giải pháp tổ chức một kỳ thi quốc gia sau THPT và sử dụng kết quả này là căn cứ để xét tuyển vào ĐH, CĐ và THCN. Đây là một chủ trương đúng đắn, bởi nó vừa phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam, vừa tăng cường tính liên thông, liên tục giữa các bậc học trong quá trình giáo dục...

Hội thảo Đổi mới tuyển sinh đại học cao đẳng: 11

Hội thảo khoa học “Đổi mới tuyển sinh Đại học và Cao đẳng tại Việt Nam”
Thứ bảy, 20/12/2008 08 giờ 54 GMT+7
Báo điện tử Cần Thơ

Ngày 19-12, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội thảo khoa học “Đổi mới tuyển sinh Đại học và Cao đẳng tại Việt Nam”, với sự tham dự của đông đảo các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu về giáo dục đại học ở Việt Nam.

GS. TSKH Lâm Quang Thiệp cho rằng: tuyển sinh đại học là một khâu quan trọng trong hoạt động giáo dục của nhiều nước trên thế giới, vì nó tác động đến giới trẻ, là cái cổng dẫn đến con đường lập thân của giới trẻ, góp phần quyết định sự thành đạt trong tương lai của họ... Với Việt Nam, khi giáo dục đại học đang có xu hướng đại chúng hóa, tuyển sinh đại học (ĐH) và cao đẳng (CĐ) đang là mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội.

Hội thảo đã nêu các kinh nghiệm về tuyển sinh ĐH, CĐ ở các nước có nền giáo dục đại học phát triển như: Hoa Kỳ, Nga, Hà Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc,.. nhằm đưa ra những giải pháp khả thi cho công tác tuyển sinh ĐH, CĐ ở Việt Nam. TS Lê Minh Thảo đã dẫn chứng về các mô hình tuyển sinh ĐH, CĐ như: ở Hà Lan, các trường ĐH không tổ chức thi tuyển sinh mà chỉ xét tuyển để chọn ra những học sinh xuất sắc nhất dựa vào kết quả học tập của học sinh ở bậc THPT; ở Hàn Quốc, việc tuyển sinh đại học dựa vào kỳ thi tuyển sinh ĐH chung cho toàn quốc (60%) kết hợp với việc xét tuyển dựa trên kết quả học tập bậc THPT hoặc thi tự luận, phỏng vấn và thực hành theo nhu cầu của từng trường (40%); ở Nhật Bản, kỳ thi ĐH được tổ chức trên toàn quốc theo phương pháp thi trắc nghiệm (tùy theo trường ĐH mà thí sinh dự thi những môn xác định)...

Về cách xét tuyển ĐH ở Hoa Kỳ, GS.TSKH Lâm Quang Thiệp cho biết: Các trường ĐH Hoa kỳ xét tuyển dựa trên kết quả học tập ở THPT và kết quả trong kỳ thi SAT hoặc ACT. SAT và ACT là những kỳ thi được xem là dịch vụ đánh giá kết quả học sinh phục vụ tuyển sinh ĐH. GS Thiệp cũng cho biết: Riêng ở Nga, từ năm 2000 đã tiến hành tổ chức một Kỳ thi quốc gia duy nhất ở bậc cuối phổ thông để xét tốt nghiệp và xét tuyển vào ĐH. Các trường ĐH hàng đầu ở Nga có thể lấy những thí sinh đạt từ 95-100 điểm kỳ thi quốc gia và tổ chức thêm một kỳ thi bổ sung để lựa chọn các ứng viên xuất sắc nhất...

Từ những kinh nghiệm thực tế của các nước, các đại biểu đã nêu lên nhiều kiến nghị, góp ý cho việc đổi mới công tác tuyển sinh ĐH, CĐ tại Việt Nam. Trong đó thống nhất với giải pháp tổ chức một kỳ thi quốc gia sau THPT và sử dụng kết quả này là căn cứ để xét tuyển vào ĐH, CĐ và THCN. Tổ chức một kỳ thi duy nhất ở cuối bậc THPT là một chủ trương đúng đắn. TS Lê Khắc Cường thừa nhận rằng: xét tuyển đại học căn cứ vào kết quả học tập và kết quả thi tốt nghiệp THPT là hợp lý. Bởi nó vừa phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam, vừa tăng cường tính liên thông, liên tục giữa các bậc học trong quá trình giáo dục...

HỮU DUYÊN (TTXVN

Tienphong đưa tin về Hội thảo (theo Tuổi trẻ): 10

Nọi dung có thể đọc ở bài 9!

Tin về Hội thảo Đổi mới tuyển sinh đại học và cao đẳng: 9 (lấy lại theo Tuổi trẻ)

Nguồn: VnDG (Cổng thông tin VN)
Đề xuất bỏ kỳ thi tốt nghiệp THPT

Có nên tổ chức kỳ thi chung xét tốt nghiệp THPT và tuyển sinh vào đại học? Thời điểm nào thực hiện? Bỏ thi tuyển sinh đại học liệu có ổn?

Những câu hỏi này một lần nữa được các nhà giáo dục mang ra bàn bạc ở “Hội thảo đổi mới tuyển sinh đại học, cao đẳng tại Việt Nam” do Đại học Quốc gia TP.HCM tổ chức ngày 19/12.

Không thể phủ nhận những mặt được của phương thức tuyển sinh “ba chung” được áp dụng từ năm 2002 nhưng phương thức này cũng có quá nhiều bất cập.

Hầu hết ý kiến đồng tình việc chấm dứt phương thức tuyển sinh này. Tuy nhiên, ý kiến từ các trường đại học (ĐH) cũng chưa thống nhất phương án thi khác.

Lo lắng “2 trong 1”

Tiến sĩ Nguyễn Đức Nghĩa, phó giám đốc ĐHQG TP.HCM dự báo một viễn cảnh khi tổ chức kỳ thi “hai trong một” (lấy kết quả thi tốt nghiệp THPT xét tuyển vào ĐH, CĐ): thử tưởng tượng lúc không tổ chức thi ĐH nữa, các trường ĐH sẽ làm gì, hồ sơ chạy đi đâu, làm hồ sơ tuyển sinh ĐH như thế nào? Liệu có tránh khỏi tình trạng hỗn loạn khi hàng chục người chen lấn vào một trường ĐH để mua hồ sơ?

Cùng quan điểm này, ông Mỵ Giang Sơn, trưởng phòng đào tạo Trường ĐH Sài Gòn, cho rằng nếu không còn kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ sẽ có nhiều trường rất đông thí sinh, trong khi nhiều trường khác thưa vắng. Các trường CĐ có thể không có nguồn tuyển sinh.

Tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng, trưởng phòng đào tạo Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, cho rằng, tuyển sinh gắn liền với chuẩn đầu vào của từng trường, hãy để các trường được tự chủ chuyện này. Rất nhiều ý kiến không đồng tình việc lấy kết quả thi tốt nghiệp THPT để tuyển sinh vào ĐH.

Nói như Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Nhã, trưởng ban đào tạo ĐHQG Hà Nội, khâu tuyển sinh gắn liền với chiến lược phát triển của từng trường ĐH. Chất lượng đầu vào, đầu ra là một tiêu chí xác định vị thế, đẳng cấp của mỗi trường ĐH.

Vì lẽ này, các trường ĐH kiến nghị: muốn thay đổi cách tổ chức thi ĐH phải có chính sách hợp lý và có lộ trình để đảm bảo công bằng và tuyển đúng những người cần cho từng nhóm ngành đào tạo của các trường.

Lộ trình ấy như thế nào? Ngay chính những người làm công tác tuyển sinh ở các trường ĐH vẫn chưa thể hình dung được, chưa biết mình sẽ làm gì chuẩn bị cho kỳ thi chung ấy khi thời điểm sáp nhập đã gần kề (năm 2010).

Nhiều ý kiến tại hội thảo hồ nghi tính khả thi đề án này: liệu có chắc chắn năm 2010 sẽ chỉ có một kỳ thi hay sẽ tiếp tục hoãn như từng hoãn nhiều lần trước đây?

Hậu “ba chung” tuyển sinh theo kiểu gì?

Tiến sĩ Vũ Thị Phương Anh (ĐHQG TP.HCM) đề xuất ba phương án tuyển sinh cho các nhóm trường khác nhau trong trường hợp không còn kỳ thi “ba chung”. Theo đề xuất này, Tiến sĩ Phương Anh chia các trường ra thành ba nhóm.

Nhóm thứ nhất gồm các trường, ngành không đặc thù, không có tính cạnh tranh cao, không sử dụng kinh phí của Nhà nước. Nhóm này sử dụng kết quả thi tốt nghiệp THPT và xét học bạ.

Nhóm thứ hai gồm các trường, ngành có tính đặc thù và cạnh tranh cao, đòi hỏi năng lực, năng khiếu đặc biệt của người học hoặc nhận được sự đầu tư đặc biệt của Nhà nước. Nhóm này sử dụng kết quả của kỳ thi tốt nghiệp THPT kết hợp với kết quả một kỳ thi khác.

Xét tuyển hay thi tuyển?

Tiến sĩ Nguyễn Đức Nghĩa cho rằng ở cấp độ từng trường cụ thể, lãnh đạo nhà trường nên xem xét để quyết định một số ngành xét tuyển hay thi tuyển. Những ngành khó tuyển hay không đặc thù thì nên tổ chức xét tuyển với những điều kiện, tiêu chí, chuẩn mực cụ thể. Những ngành có tính cạnh tranh cao thì nên tổ chức thi.

Ở cấp độ mạng lưới trường, Bộ GD-ĐT cần có quy trình, lịch trình cụ thể tổ chức việc xét tuyển hợp lý.

Nhóm thứ ba gồm các hệ đào tạo đặc biệt như hoàn thiện ĐH, tại chức, đào tạo từ xa, văn bằng 2… chỉ cần xét hồ sơ xin học kèm các yếu tố dân số.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Nhã đề xuất nhiều phương thức tuyển sinh khác nhau như: từ xét hồ sơ, phỏng vấn, thi vấn đáp, làm bài thi đến tổ chức thi nhiều vòng.

Để phục vụ mục đích đó, các trường phải tạo điều kiện thuận tiện nhất cho thí sinh, đưa ra nhiều giải pháp khác nhau như tổ chức thi tuyển theo học kỳ, đăng ký dự thi qua mạng cùng những chính sách ưu tiên, ưu đãi hợp lý.

Trong khi đó, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng cho rằng: “Giải pháp giảm áp lực thi cử không phải là nhập hai kỳ thi làm một mà phải chia thành nhiều kỳ thi, chia làm nhiều nơi tổ chức thi và bộ đừng bắt buộc các trường chỉ tuyển sinh một lần trong năm”.

Có thể chứng nhận tốt nghiệp THPT

Dù còn nhiều ý kiến đồng tình duy trì kỳ thi tốt nghiệp THPT, dùng kết quả đó xét tuyển ĐH, nhưng cũng có nhiều ý kiến mạnh dạn đề xuất phương án ngược lại.

Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Lâm Quang Thiệp cho rằng: phương án tổ chức một kỳ thi chung cuối bậc phổ thông là chủ trương đúng của Bộ. “Hai kỳ thi hiện nay tuy khác nhau nhưng đều giống nhau ở chỗ đánh giá năng lực học sinh qua chương trình phổ thông.

“Tôi đề xuất phương án một kỳ thi cuối bậc phổ thông nhưng không phải là thi tốt nghiệp, không dùng kết quả này để xét tốt nghiệp. Đây cũng không phải là kỳ thi tuyển trực tiếp vào ĐH như hiện nay, mà là kỳ thi độc lập để đánh giá năng lực người học sau THPT.

Kỳ thi này có thể tổ chức nhiều lần trong năm, người học có thể học bằng nhiều con đường khác nhau đều có thể tham dự kỳ thi này.

Theo tôi, kỳ thi tốt nghiệp không cần thiết phải tổ chức thành kỳ thi quốc gia và để đảm bảo khách quan, kỳ thi chung không nên gắn với các địa phương” - ông nói.

Còn Tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng mạnh dạn đề xuất: “Việc kiểm tra công nhận tốt nghiệp THPT có thể giao về cho các địa phương, Bộ chỉ cần công bố chuẩn tốt nghiệp, việc này phải có sự chuẩn bị, đến năm 2012 chẳng hạn. Nếu chúng ta lo ngại tiêu cực mà không dám đưa ra những chính sách mới, tức là có thể trói buộc những nơi không tiêu cực”.

Ông Mỵ Giang Sơn cho rằng: “Học sinh hoàn thành chương trình THPT có thể được cấp bằng hoặc chứng nhận tốt nghiệp, không nhất thiết phải thi tốt nghiệp”.

Nhiều ý kiến bên lề hội thảo cũng đặt vấn đề: thi tốt nghiệp quy mô quốc gia làm chi khi tỉ lệ đậu nhiều nơi đến 98% và chúng ta đang tiến tới phổ cập THPT? Vấn đề còn lại là chuyện tổ chức thi ĐH như thế nào cho hợp lý và công bằng.

Theo Tiền phong (20/12/2008)

Hội thảo Đổi mới tuyển sinh đại học và cao đẳng tại VN: 8

Thứ Bẩy, 20/12/2008 - 9:54 AM
Nguồn: Dân Trí

“Bộ không nên ôm mãi chuyện tuyển sinh”


GS-TSKH Lâm Quang Thiệp: “Đòi hỏi một bằng chung, tiêu chuẩn quốc gia chung cho các tỉnh là ảo tưởng”.
(Dân trí) - Tại Hội thảo về Đổi mới tuyển sinh ĐH, CĐ được tổ chức tại ĐHQG TPHCM ngày hôm qua, 19/12, nhiều đại biểu tham dự cho rằng: Tuyển sinh ĐH, CĐ là việc của các trường chứ không phải của Bộ GD-ĐT.


Tuyển sinh ĐH, CĐ là một khâu quan trọng trong hoạt động giáo dục của nhiều nước trên thế giới, vì nó động chạm tới giới trẻ và gia đình của họ, nó là một cái cổng dẫn đến một con đường quan trọng để lập thân, lập nghiệp của giới trẻ, góp phần khá quyết định vào sự thành đạt của họ trong tương lai.

Việc đổi mới tuyển sinh ĐH, CĐ tại Việt Nam vẫn là một “câu chuyện” được nhiều nhà nghiên cứu về giáo dục quan tâm. Năm 2007, nhằm đảm bảo công bằng, nghiêm túc, khách quan trong việc xét tuyển vào ĐH, CĐ đồng thời nâng cao hiệu quả công tác tuyển sinh, giảm áp lực và chi phí cho người học và xã hội, Bộ GD-ĐT đã đưa ra một đề án tổng thể về đổi mới công tác tuyển sinh. Theo đó, nhiều giải pháp đã được đề xuất.

Một giải pháp được khá nhiều đồng tình là tổ chức thống nhất một kỳ thi quốc gia sau THPT, sử dụng hình thức trắc nghiệm khách quan (TNKQ) và ứng dụng CNTT trong quy trình tổ chức thi, và sử dụng kết quả của kỳ thi này làm một căn cứ quan trọng để xét tuyển vào ĐH, CĐ và TCCN. Và đây cũng là những biện pháp đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới.

Tuy nhiên, cho đến nay xung quanh đề án này vẫn còn những ý kiến khác nhau về tính hợp lý và khả thi của các biện pháp đã được đề xuất trong bối cảnh của Việt Nam, và những tác động tích cực cũng như tiêu cực có thể có của các biện pháp này lên hiệu quả của công tác tuyển sinh và chất lượng đầu vào của sinh viên.

Nhiều đại biểu cho rằng, mục tiêu của kỳ thi tốt nghiệp THPT là để đánh giá trình độ người học, còn kỳ thi ĐH, CĐ là để đánh giá xem người học có đủ trình độ để học tiếp ở trường mà thí sinh đã lựa chọn hay không. Nếu trộn lẫn hai mục tiêu này vào một kỳ thi thì còn nhiều việc phải bàn. Các trường ĐH sẽ không tin vào kết quả của kỳ thi chung vì chắc chắn tiêu cực sẽ rất nhiều.

Đồng tình với nhiều ý kiến trên, GS-TSKH Lâm Quang Thiệp (nguyên Vụ trưởng Vụ ĐH và sau ĐH) cũng cho rằng: “Phương án tổ chức một kỳ thi ở cuối bậc phổ thông của Bộ GD-ĐT là một chủ trương đúng đắn. Tuy nhiên, kỳ thi tốt nghiệp THPT không nên tổ chức thành kỳ thi quốc gia. Việc đòi hỏi một bằng chung, tiêu chuẩn quốc gia chung cho các tỉnh là ảo tưởng vì điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương là khác nhau”.

“Bỏ tuyển sinh thì sẽ loạn. Vả lại, đề thi của năm này so với năm kia không tương đương được với nhau. Nếu chúng ta tổ chức một kỳ thi và sử dụng kết quả này thì kết quả của năm nay có giống kết quả năm sau không? Học sinh dự thi năm nay có thể dùng kết quả để xét năm sau không?...” - TS. Nguyễn Đức Nghĩa, Phó giám đốc ĐHQG TPHCM băn khoăn.

Qua đó, TS Nghĩa nêu lên một vấn đề: “Tuởng tượng kịch bản nếu không thi thì các trường ĐH, CĐ sẽ làm gì, Bộ làm gì, thí sinh như thế nào? Tôi không chủ trương bỏ thi tuyển sinh ngay, bỏ thi phải có cái gì đó để thi sinh biết được thí sinh nên làm gì. Chứ không sẽ diễn ra cảnh hàng ngàn thí sinh và phụ huynh chen lấn vào một trường nào đó để dự thi, còn những trường khác không có ai tới đăng ký!”.

Đồng quan điểm, thầy Nguyễn Tiến Dũng, Trưởng phòng đào tạo ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM cho biết: “Nếu bỏ thi năm nay thì các trường sẽ chết. Chúng ta phải đa dạng hóa hình thức tuyển sinh. Công việc tuyển sinh là của các trường. Bộ không nên ôm khư khư mãi chuyện tuyển sinh, nên giao cho các trường tự xét tuyển cho riêng mình”.

Ngoài ra, nhiều ý kiến cho rằng, đổi mới cần phải có lộ trình, không thể nói đã quyết là làm ngay được, chẳng khác nào chuyện “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Kỳ thi này một năm nên tổ chức vài lần, thí sinh muốn thi lúc nào cũng được. Thi một lần như hiện nay thì rất áp lực và tạo nên những tiêu cực, chia địa điểm và thời kỳ thi thì sẽ giảm áp lực.

Đoàn Quý

Thứ Bảy, 20 tháng 12, 2008

Tin về Hội thảo đổi mới tuyển sinh đại học - cao đẳng tại Việt Nam: 6

Thứ Bảy, 20/12/2008, 08:29 (GMT+7)


Đề xuất bỏ kỳ thi tốt nghiệp THPT

TT - Có nên tổ chức kỳ thi chung xét tốt nghiệp THPT và tuyển sinh vào ĐH? Thời điểm nào thực hiện? Bỏ thi tuyển sinh ĐH liệu có ổn? Những câu hỏi này một lần nữa được các nhà giáo dục mang ra bàn bạc ở “Hội thảo đổi mới tuyển sinh ĐH, CĐ tại VN” do ĐH Quốc gia TP.HCM tổ chức ngày 19-12.



Thí sinh thường bị căng thẳng khi trải qua hai kỳ thi liên tiếp: tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH, CĐ. Trong ảnh: thí sinh nộp bài thi tại Trường đại học Nông lâm TP.HCM kỳ thi đại học năm 2008 - Ảnh: Như Hùng


Không thể phủ nhận những mặt được của phương thức tuyển sinh “ba chung” được áp dụng từ năm 2002 nhưng phương thức này cũng có quá nhiều bất cập, hầu hết ý kiến đồng tình việc chấm dứt phương thức tuyển sinh này. Tuy nhiên, ý kiến từ các trường ĐH cũng chưa thống nhất phương án thi khác.

Lo lắng “2 trong 1”

Xét tuyển hay thi tuyển?

Trao đổi với Tuổi Trẻ, TS Nguyễn Đức Nghĩa cho rằng ở cấp độ từng trường cụ thể, lãnh đạo nhà trường nên xem xét để quyết định một số ngành xét tuyển hay thi tuyển. Những ngành khó tuyển hay không đặc thù thì nên tổ chức xét tuyển với những điều kiện, tiêu chí, chuẩn mực cụ thể. Những ngành có tính cạnh tranh cao thì nên tổ chức thi. Ở cấp độ mạng lưới trường, Bộ GD-ĐT cần có quy trình, lịch trình cụ thể tổ chức việc xét tuyển hợp lý.


TS Nguyễn Đức Nghĩa, phó giám đốc ĐHQG TP.HCM, dự báo một viễn cảnh khi tổ chức kỳ thi “hai trong một” (lấy kết quả thi tốt nghiệp THPT xét tuyển vào ĐH, CĐ): thử tưởng tượng lúc không tổ chức thi ĐH nữa, các trường ĐH sẽ làm gì, HS chạy đi đâu, làm hồ sơ tuyển sinh ĐH như thế nào? Liệu có tránh khỏi tình trạng hỗn loạn khi hàng chục người chen lấn vào một trường ĐH để mua hồ sơ?

Cùng quan điểm này, ông Mỵ Giang Sơn, trưởng phòng đào tạo Trường ĐH Sài Gòn, cho rằng nếu không còn kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ sẽ có nhiều trường rất đông thí sinh, trong khi nhiều trường khác thưa vắng, các trường CĐ có thể không có nguồn tuyển sinh.

TS Nguyễn Tiến Dũng, trưởng phòng đào tạo Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, cho rằng tuyển sinh gắn liền với chuẩn đầu vào của từng trường, hãy để các trường được tự chủ chuyện này. Rất nhiều ý kiến không đồng tình việc lấy kết quả thi tốt nghiệp THPT để tuyển sinh vào ĐH.

Nói như PGS-TS Nguyễn Văn Nhã, trưởng ban đào tạo ĐHQG Hà Nội, khâu tuyển sinh gắn liền với chiến lược phát triển của từng trường ĐH. Chất lượng đầu vào, đầu ra là một tiêu chí xác định vị thế, đẳng cấp của mỗi trường ĐH. Vì lẽ này, các trường ĐH kiến nghị: muốn thay đổi cách tổ chức thi ĐH phải có chính sách hợp lý và có lộ trình để đảm bảo công bằng và tuyển đúng những người cần cho từng nhóm ngành đào tạo của các trường.

Lộ trình ấy như thế nào? Ngay chính những người làm công tác tuyển sinh ở các trường ĐH vẫn chưa thể hình dung được, chưa biết mình sẽ làm gì chuẩn bị cho kỳ thi chung ấy khi thời điểm sáp nhập đã gần kề (năm 2010). Nhiều ý kiến tại hội thảo hồ nghi tính khả thi đề án này: liệu có chắc chắn năm 2010 sẽ chỉ có một kỳ thi hay sẽ tiếp tục hoãn như từng hoãn nhiều lần trước đây?

Hậu “ba chung” tuyển sinh theo kiểu gì?


Áp lực nặng nề khiến TS rất căng thẳng trước mỗi kỳ thi tuyển sinh ĐH. Trong ảnh: TS đợi gọi tên vào phòng thi tại kỳ thi tuyển sinh ĐH năm 2008 - Ảnh: Tr.Tân


TS Vũ Thị Phương Anh (ĐHQG TP.HCM) đề xuất ba phương án tuyển sinh cho các nhóm trường khác nhau trong trường hợp không còn kỳ thi “ba chung”. Theo đề xuất này, TS Phương Anh chia các trường ra thành ba nhóm.

Nhóm thứ nhất gồm các trường, ngành không đặc thù, không có tính cạnh tranh cao, không sử dụng kinh phí của Nhà nước. Nhóm này sử dụng kết quả thi tốt nghiệp THPT và xét học bạ. Nhóm thứ hai gồm các trường, ngành có tính đặc thù và cạnh tranh cao, đòi hỏi năng lực, năng khiếu đặc biệt của người học hoặc nhận được sự đầu tư đặc biệt của Nhà nước. Nhóm này sử dụng kết quả của kỳ thi tốt nghiệp THPT kết hợp với kết quả một kỳ thi khác. Nhóm thứ ba gồm các hệ đào tạo đặc biệt như hoàn thiện ĐH, tại chức, đào tạo từ xa, văn bằng 2… chỉ cần xét hồ sơ xin học kèm các yếu tố dân số.

PGS-TS Nguyễn Văn Nhã đề xuất nhiều phương thức tuyển sinh khác nhau như: từ xét hồ sơ, phỏng vấn, thi vấn đáp, làm bài thi đến tổ chức thi nhiều vòng. Để phục vụ mục đích đó, các trường phải tạo điều kiện thuận tiện nhất cho thí sinh, đưa ra nhiều giải pháp khác nhau như tổ chức thi tuyển theo học kỳ, đăng ký dự thi qua mạng cùng những chính sách ưu tiên, ưu đãi hợp lý. Trong khi đó TS Nguyễn Tiến Dũng cho rằng: “Giải pháp giảm áp lực thi cử không phải là nhập hai kỳ thi làm một mà phải chia thành nhiều kỳ thi, chia làm nhiều nơi tổ chức thi và bộ đừng bắt buộc các trường chỉ tuyển sinh một lần trong năm”.

Có thể chứng nhận tốt nghiệp THPT

Dù còn nhiều ý kiến đồng tình duy trì kỳ thi tốt nghiệp THPT, dùng kết quả đó xét tuyển ĐH, nhưng cũng có nhiều ý kiến mạnh dạn đề xuất phương án ngược lại.

GS - TSKH Lâm Quang Thiệp cho rằng: phương án tổ chức một kỳ thi chung cuối bậc phổ thông là chủ trương đúng của bộ. “Hai kỳ thi hiện nay tuy khác nhau nhưng đều giống nhau ở chỗ đánh giá năng lực HS qua chương trình phổ thông.

“Tôi đề xuất phương án một kỳ thi cuối bậc phổ thông nhưng không phải là thi tốt nghiệp, không dùng kết quả này để xét tốt nghiệp. Đây cũng không phải là kỳ thi tuyển trực tiếp vào ĐH như hiện nay, mà là kỳ thi độc lập để đánh giá năng lực người học sau THPT. Kỳ thi này có thể tổ chức nhiều lần trong năm, người học có thể học bằng nhiều con đường khác nhau đều có thể tham dự kỳ thi này. Theo tôi, kỳ thi tốt nghiệp không cần thiết phải tổ chức thành kỳ thi quốc gia và để đảm bảo khách quan, kỳ thi chung không nên gắn với các địa phương” - ông nói.

Còn TS Nguyễn Tiến Dũng mạnh dạn đề xuất: “Việc kiểm tra công nhận tốt nghiệp THPT có thể giao về cho các địa phương, bộ chỉ cần công bố chuẩn tốt nghiệp, việc này phải có sự chuẩn bị, đến năm 2012 chẳng hạn. Nếu chúng ta lo ngại tiêu cực mà không dám đưa ra những chính sách mới, tức là có thể trói buộc những nơi không tiêu cực”. Ông Mỵ Giang Sơn cho rằng: “HS hoàn thành chương trình THPT có thể được cấp bằng hoặc chứng nhận tốt nghiệp, không nhất thiết phải thi tốt nghiệp”.

Nhiều ý kiến bên lề hội thảo cũng đặt vấn đề: thi tốt nghiệp quy mô quốc gia làm chi khi tỉ lệ đậu nhiều nơi đến 98% và chúng ta đang tiến tới phổ cập THPT? Vấn đề còn lại là chuyện tổ chức thi ĐH như thế nào cho hợp lý và công bằng.

PHÚC ĐIỀN - HÙNG THUẬT

Tin về Hội thảo Đổi mới tuyển sinh đại học - cao đẳng tại VN: 5

Cải tiến tuyển sinh: Nên phân cấp, phân quyền!

http://www.thanhnien.com.vn/news/Pages/200851/20081220002510.aspx

20/12/2008 0:25
Cần có lộ trình và sự chuẩn bị cần thiết cho việc đổi mới tuyển sinh - Ảnh: Đ.N.T
Đúng nửa tháng trước hội nghị tuyển sinh ĐH-CĐ 2009, ngày 19.12, ĐH Quốc gia TP.HCM đã tổ chức hội thảo “Đổi mới tuyển sinh ĐH-CĐ tại VN”. Nhiều đại biểu đã đặt nhiều vấn đề băn khoăn trước những thông tin chưa rõ ràng về kỳ thi tốt nghiệp THPT và sử dụng kết quả đó để xét tuyển ĐH.
Chưa yên tâm

PGS-TS Nguyễn Văn Nhã – Trưởng ban Đào tạo, ĐHQG Hà Nội - phát biểu thẳng: “ĐHQG Hà Nội chưa tin việc dùng kết quả thi tốt nghiệp THPT để làm căn cứ quan trọng trong việc xét tuyển ĐH-CĐ”. Về lộ trình đổi mới tuyển sinh mà Bộ GD-ĐT đưa ra, cảm giác mơ hồ hiện rõ trong hội thảo khi nhiều đại biểu nói với nhau: “Chắc gì đến 2010 sẽ tổ chức được một kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia như dự định, để lấy kết quả xét tuyển vào ĐH?”.

TS Nguyễn Chí Hòa – Giám đốc Trung tâm Khảo thí trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG HN) nói: “Hạn chế của Bộ GD-ĐT trong thời gian vừa rồi là chưa chuẩn bị đầy đủ kế hoạch đổi mới tuyển sinh mà đã tung hết lên báo chí, tạo cho dư luận xôn xao vì không biết sắp tới sẽ thi kiểu gì?”. TS Nguyễn Thị Tuyết – Phó ban Công tác sinh viên ĐHQG Hà Nội nhận xét, áp lực duy nhất cho thí sinh thi vào ĐH là chỉ có 1 kỳ thi/năm, tất cả học sinh tốt nghiệp THPT chịu áp lực quá lớn khi phải vượt qua kỳ thi này, mỗi năm mới tổ chức 1 lần thì quá ít.

Nên phân cấp, phân quyền

Cho đến nay Bộ GD-ĐT chưa cho biết rõ bao giờ thì tổ chức kỳ thi duy nhất cuối bậc phổ thông để xét vào ĐH, kỳ thi đó được tổ chức như thế nào, bao nhiêu môn thi sẽ dùng đề trắc nghiệm. GS Lâm Quang Thiệp đề nghị nên học tập cách tuyển sinh ở Mỹ. Chúng ta, nếu chưa tư nhân hóa được thì cũng nên phi tập trung hóa, nghĩa là không phải mọi thứ đều tập trung do Bộ GD-ĐT làm. Nên giao thêm quyền cho 2 ĐHQG và các trường ĐH có uy tín tham gia điều hành tuyển sinh thì hiệu quả sẽ cao hơn nhiều.

Ông nhận xét: “Cục Khảo thí ĐBCLGD thành lập đã 5 năm nhưng chưa làm được những việc cơ bản về đổi mới tuyển sinh. Để tổ chức kỳ thi quốc gia duy nhất có hiệu quả, cơ quan này nên nghiên cứu nghiêm túc các ý kiến đóng góp của các nhà khoa học có hiểu biết. Đồng thời, nên tìm sự hỗ trợ của các chuyên gia về khoa học đo lường trong giáo dục ở nước ta, của các chuyên gia giỏi từ nước ngoài”.

Ông cũng đề nghị các ĐHQG phối hợp với các trường ĐH hàng đầu khác và các công ty trắc nghiệm chuyên nghiệp tổ chức thêm một kỳ thi với đề thi khó hơn, các câu hỏi trắc nghiệm đa dạng hơn và đánh giá các cấp độ tư duy cao hơn, có thể phối hợp trắc nghiệm và tự luận, để lấy kết quả xét tuyển vào các trường ĐH hàng đầu.

TS Nguyễn Tiến Dũng – Trưởng phòng Đào tạo trường ĐH Sư phạm kỹ thuật TP.HCM – cho rằng nên giải tỏa áp lực kỳ thi: chia địa điểm thi theo từng cụm, từng vùng địa phương thống nhất với nhau, mỗi năm tổ chức thi ĐH vài lần, giao quyền nhiều hơn cho các vùng miền. Ông Dũng nói: “Bộ GD-ĐT nên xem tuyển sinh ĐH là một khâu trong quá trình đào tạo, nên giao cho các trường được tự chủ hơn trong tuyển sinh ĐH”.

Với tư cách “chủ nhà” tổ chức hội thảo, TS Nguyễn Đức Nghĩa – Phó giám đốc ĐHQG TP.HCM nêu ra những điểm được nhiều đại biểu đồng ý như: mong muốn có một kỳ thi nhẹ nhàng hơn, chính xác và công bằng; cần có lộ trình, thời gian và sự chuẩn bị cần thiết; nên có cả phương thức thi kết hợp với xét tuyển. Riêng đối với ĐHQG TP.HCM, nếu đến năm 2010 bắt đầu cải tiến tuyển sinh như Bộ GD-ĐT dự định, các trường thành viên của ĐHQG - TP.HCM sẽ trình phương án vào giữa năm 2009 để khoảng tháng 9.2009 bắt đầu thực hiện.

ĐHQG-TP.HCM cũng sẽ liên kết chặt chẽ với ĐHQG Hà Nội, mong muốn các trường ĐH khác cùng tham gia để giao lưu, học hỏi lẫn nhau. Các đại biểu dự hội thảo cũng thống nhất đề nghị khâu tuyển sinh nên để cho các trường chủ động, kể cả định mức điểm sàn; Bộ GD-ĐT chỉ lo vấn đề điều phối, đặt ra những vấn đề chung mang tính chất khung.

Nhựt Quang

Tin về Hội thảo Đổi mới tuyển sinh đại học - cao đẳng tại VN: 4

GIÁO DỤC
Tuyển sinh ĐH-CĐ: Giải pháp nào cho hậu “3 chung”?
http://www.sggp.org.vn/giaoduc/2008/12/175747/

Thứ bảy, 20/12/2008, 03:54 (GMT+7)
“Phải bỏ thi tuyển “3 chung” thay bằng hình thức xét tuyển dựa vào kết quả kỳ thi tốt nghiệp THPT” là nội dung nóng bỏng được nhiều đại biểu đồng tình và đưa ra tranh luận sôi nổi tại hội thảo “Đổi mới tuyển sinh ĐH-CĐ” được tổ chức tại ĐH Quốc gia TPHCM ngày 19-12.

Bao giờ hết “3 chung”

Xung quanh vấn đề chấm dứt hình thức thi tuyển sinh “3 chung” vào năm 2010, nhiều đại biểu tỏ ra không tin tưởng vào những thông báo của Bộ GD-ĐT. PGS-TS Nguyễn Kim Hồng, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm TPHCM, thẳng thắn cho rằng: Bản thân bộ cũng đang mâu thuẫn với chính mình trong việc xác định có hay không tổ chức một kỳ thi tốt nghiệp (TN) THPT quốc gia và dùng kết quả đó để xét tuyển vào ĐH-CĐ. Bây giờ không ai dám chắc thông báo đó có tiếp tục dời sang những năm kế tiếp hay không.

Thực tế cho thấy, tình trạng thay đổi kế hoạch liên tục trước và sau mỗi kỳ thi tuyển sinh là điều mà thời gian qua xã hội lẫn các trường rất bức xúc. PGS-TS Nguyễn Chí Hòa, Giám đốc Trung tâm Đảm bảo chất lượng Trường ĐH KHXH-NV (ĐH QG Hà Nội) đặt nghi vấn: “Cho đến thời điểm này, dù trả lời trên các phương tiện thông tin đại chúng về đổi mới, cải tiến tuyển sinh nhưng các trường vẫn chưa thấy được sáng kiến nào của bộ. Có chăng chỉ là những sáng kiến, ý tưởng chưa đâu vào đâu đã vội vàng thông báo... rồi rút lại. Các trường và học sinh không thể đoán trước được sẽ học và thi kiểu gì? Trong khi đó, Trung tâm Khảo thí - Kiểm định chất lượng Bộ GD-ĐT ra đời đã 5 năm rồi nhưng vẫn chưa thấy có một đóng góp gì cho đổi mới công tác tuyển sinh”.

TS Nguyễn Tiến Dũng, Trưởng phòng Đào tạo Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM, nhấn mạnh, từ năm 2002 đến nay bộ ôm đồm hết nên các trường hoàn toàn bị động, không thể tự chủ được trong tuyển sinh. Do đó, kiến nghị “nên để các trường tự chủ trong tuyển sinh, bộ chỉ lo quản lý, theo dõi, đánh giá”, đã được nhiều đại biểu đồng tình.

Hiện nay các trường đều đã lên phương án cho công tác tuyển sinh hậu “3 chung” và sẽ gửi kiến nghị trình Bộ GD-ĐT. Tuy nhiên, điều mà nhiều đại biểu quan tâm là khi nào bộ sẽ chính thức công khai, minh bạch lộ trình bỏ thi “3 chung” cũng như các quy định, chính sách đổi mới để các trường mạnh dạn xét tuyển, tránh tình trạng cứ tới mỗi mùa tuyển sinh lại phải đối phó với bao rối rắm.

Xét tuyển có tối ưu?

Vấn đề quan tâm tại hội thảo là “nên có một kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia để xét tuyển hay vẫn tổ chức thi tuyển sinh ĐH-CĐ bằng nhiều hình thức khác nhau”.

GS-TSKH Lâm Quang Thiệp, nguyên Vụ trưởng Vụ ĐH, nêu rõ: đến năm 2009, nền giáo dục nước ta sẽ hội nhập sâu với thế giới và nhiều trường quốc tế sẽ có mặt tại VN. Nếu không bỏ “3 chung” thì chúng ta sẽ tụt hậu và tự thua ngay trên sân nhà. Do đó, phương án xét tuyển dựa trên kết quả thi tốt nghiệp THPT là hợp lý. Tuy nhiên, cũng có đại biểu quan ngại, các trường công lập hay các trường có chất lượng cũng thận trọng hơn khi cho rằng nếu làm không tốt thì chất lượng kỳ thi tốt nghiệp THPT toàn quốc sẽ có nhiều tiêu cực. Thậm chí không loại trừ tình trạng “gửi gắm”.

Nói về phương pháp xét tuyển, TS Vũ Thị Phương Anh, Giám đốc Trung tâm Kiểm định chất lượng ĐHQG TPHCM, thận trọng: Do các trường và các ngành đào tạo có mục tiêu, yêu cầu khác nhau nên không thể có một phương án tuyển sinh chung cho tất cả TS. Nên chăng phải có phân biệt giữa các nhóm trường, nhóm ngành khác nhau. Đối với các trường hoặc ngành không đặc thù, không có tính cạnh tranh cao, không sử dụng kinh phí nhà nước, nên sử dụng kết quả thi tốt nghiệp THPT và xét học bạ. Ngược lại, đối với các trường, ngành đặc thù, có tính cạnh tranh cao, có sự đầu tư đặc biệt của nhà nước, ngoài sử dụng kết quả tốt nghiệp THPT, cần có một kỳ thi khác do các trường tự ra đề.

Thanh Hùng

Tin về Hội thảo Đổi mới tuyển sinh đại học - cao đẳng tại VN: 2

Nhiều băn khoăn về kỳ thi “hai trong một”

http://www.nld.com.vn/tintuc/giao-duc/249686.asp

20-12-2008 00:15:32 GMT +7


Nếu bỏ được kỳ thi ĐH, sẽ tiết kiệm không nhỏ cho thí sinh, phụ huynh và cả xã hội. những cảnh chờ đợi trước cổng trường thi như thế này cũng sẽ không còn. Ảnh: N. HỮU
Theo dự kiến, vào năm 2010, Bộ GD-ĐT sẽ tổ chức một kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia, lấy kết quả để xét tuyển vào ĐH, CĐ và TCCN. Tuy nhiên, đại diện các trường vẫn còn rất nhiều băn khoăn về kỳ thi “hai trong một” này

Khá nhiều đại biểu đến từ các trường ĐH đã bày tỏ nỗi lo ngại về tính chính xác, công bằng trong việc chọn lựa thí sinh vào ĐH theo hình thức xét tuyển dựa trên kết quả của kỳ thi tốt nghiệp THPT tại hội thảo Đổi mới tuyển sinh ĐH, CĐ tại VN, do ĐH Quốc gia TPHCM tổ chức ngày 19-12.

Lo chất lượng “đầu vào”

Theo PGS-TS Nguyễn Phương Nga, ĐH Quốc gia Hà Nội, kỳ thi tốt nghiệp THPT chỉ mang tính chất kiểm tra kiến thức tối thiểu nên lấy kết quả này để làm căn cứ xét tuyển vào ĐH sẽ không kiểm chứng được năng lực thực sự của thí sinh. Còn TS Đồng Thị Tuyết Hạnh, Trung tâm Kiểm định và đánh giá chất lượng, ĐH Quốc gia TPHCM, bày tỏ băn khoăn: “Việc gộp chung hai kỳ thi có mục đích khác nhau liệu có bảo đảm được tính chính xác trong tuyển chọn và chất lượng “đầu vào” của các trường ĐH, CĐ sẽ ra sao?”. Theo đại biểu này, nếu tổ chức kỳ thi THPT quốc gia, lấy kết quả đó để xét tuyển vào ĐH, CĐ thì các trường vẫn phải tổ chức một kỳ xét tuyển riêng để chọn những thí sinh có đủ điều kiện và phù hợp với mục tiêu đào tạo của trường. Trong lúc đó, GS-TS Lâm Quang Thiệp, nguyên vụ trưởng Vụ ĐH, Bộ GD-ĐT, lo ngại: “Nếu lấy kết quả học tập THPT làm căn cứ xét tuyển vào ĐH thì học bạ của nhiều học sinh sẽ bị “biến hóa”. Do đó, theo GS-TS Lâm Quang Thiệp, nên tổ chức nhiều kỳ thi cho các học sinh cuối bậc phổ thông để sàng lọc dần và chọn được những thí sinh có năng lực thực sự vào giảng đường ĐH.

Nên để các trường tự quyết

Nhiều đại biểu cho rằng việc thí sinh sau khi tốt nghiệp THPT rồi lại đổ dồn lên TP dự thi ĐH như hiện nay gây lãng phí không nhỏ về thời gian, kinh phí cho thí sinh, người nhà thí sinh, cho các trường ĐH cũng như toàn xã hội. Do vậy, nhiều đại biểu đề nghị bộ không nên trì hoãn việc bỏ kỳ thi tuyển sinh ĐH. “Bộ không thể ôm mãi việc tuyển sinh mà nên giao cho các trường. Đa dạng hóa hình thức tuyển sinh là một khâu của quá trình tự chủ” - TS Nguyễn Tiến Dũng, Trưởng Phòng Đào tạo ĐH và Sau ĐH Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM, nói. Tuy nhiên, việc tổ chức một kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia thế nào để bảo đảm tính chính xác là điều nhiều đại biểu còn băn khoăn. “Nếu giao cho các tỉnh tổ chức kỳ thi này thì việc bảo đảm điều kiện chất lượng phụ thuộc vào trình độ và trách nhiệm của các tỉnh” - TS Nguyễn Hội Nghĩa, Trưởng Ban ĐH và Sau ĐH, ĐH Quốc gia TPHCM, nói. Còn TS Nguyễn Kim Hồng, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm TPHCM, nêu giải pháp: Các trường ĐH căn cứ hồ sơ xét tuyển (học bạ, các môn thi tốt nghiệp THPT) sơ tuyển những thí sinh đáp ứng yêu cầu tuyển sinh. Chỉ những ứng viên đáp ứng được những nhu cầu về hồ sơ mới được phỏng vấn hoặc dự kỳ thi của trường ĐH. “Các trường ĐH sẽ tự quyết định hình thức thi hay xét tuyển nhằm chọn đúng những thí sinh có năng lực để đạt được những kết quả mong đợi sau đào tạo”- TS Nguyễn Kim Hồng nói.

Cần có lộ trình cho việc bỏ thi ĐH

Các đại biểu cũng cho rằng cần phải có lộ trình chứ không thể ngay lập tức bỏ kỳ thi ĐH. “Với tư cách là nhà quản lý, tôi phải cẩn trọng hơn và không dám bỏ ngay lập tức kỳ tuyển sinh ĐH mà cần có sự cải tiến như thế nào đó cho xã hội yên tâm hơn” - TS Nguyễn Đức Nghĩa, Phó Giám đốc ĐH Quốc gia TPHCM, cho biết. Một số đại biểu cho rằng nếu bỏ kỳ thi tuyển sinh ĐH đột ngột sẽ gây ra rối loạn rất lớn. “Hàng chục ngàn người sẽ chen nhau nộp đơn vào các trường ĐH có tiếng, còn những trường khác lại phải đối mặt với việc không có thí sinh” - TS Nguyễn Đức Nghĩa hình dung ra “kịch bản” về việc bỏ thi tuyển sinh ĐH. PGS-TS Nguyễn Phương Nga cũng đề nghị cần phải có thời gian trước khi quyết định bỏ kỳ thi này để có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, tránh những rủi ro.

Tin về Hội thảo Đổi mới tuyển sinh đại học - cao đẳng tại VN: 1

http://www.sggp.org.vn/giaoduc/2008/12/175692/

Hội thảo “Đổi mới tuyển sinh đại học, cao đẳng” còn nhiều ý kiến trái chiều
Thứ sáu, 19/12/2008, 15:41 (GMT+7)
Theo Đề án đổi mới tuyển sinh đại học, cao đẳng (TSĐH, CĐ) của Bộ Giáo dục - Đào tạo, sau kỳ thi tuyển sinh ĐH lần cuối cùng vào năm 2009, sẽ chỉ còn một kỳ thi THPT quốc gia mà kết quả sẽ được dùng để xét tốt nghiệp phổ thông và là căn cứ để xét tuyển vào ĐH, CĐ. Bộ GD-ĐT đã đề nghị các đơn vị đào tạo ĐH, CĐ trong cả nước đóng góp ý kiến đề án này.

Sáng nay, 19-12, ĐHQG TPHCM đã có cuộc hội thảo “Đổi mới tuyển sinh ĐH, CĐ” với nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề này.

GS.TSKH Lâm Quang Thiệp, nguyên Vụ trưởng Vụ Đào tạo đại học, đã đưa ra kinh nghiệm tuyển sinh từ Hoa Kỳ và CHLB Nga. Theo đó, tại Hoa Kỳ, hệ thống TSĐH được thực hiện thông qua hai dịch vụ đánh giá phục vụ TSĐH là SAT và ACT. Sau đó các trường ĐH dựa vào kết quả thi của thí sinh ở hai hệ thống này để TSĐH.

Còn tại CHLB Nga, kỳ thi quốc gia duy nhất được tổ chức nhằm đánh giá HS đủ trình độ tốt nghiệp chương trình phổ thông 11 năm, sau đó các trường ĐH có nhu cầu đặc biệt về HS có năng khiếu hoặc thể lực có thể tổ chức thi tuyển riêng.

GS Lâm Quang Thiệp tỏ ra ủng hộ phương pháp thi trắc nghiệm khách quan cho một kỳ thi đại trà vì có thể đánh giá được năng lực của HS, đồng thời tránh áp đặt đánh giá chủ quan của người chấm thi, hạn chế được quay cóp, mang “phao”. GS ủng hộ đề án tổ chức một kỳ thi của bộ nhưng đó phải là kỳ thi độc lập để đánh giá năng lực người học ở cuối bậc phổ thông.

TS. Vũ Thị Phương Anh (Giám đốc Trung tâm Khảo thí - Đánh giá chất lượng đào tạo ĐHQG TPHCM) cũng ủng hộ phương án tổ chức một kỳ thi, sử dụng kết quả đó để làm căn cứ xét tuyển. Nhưng với Việt Nam, bà cho rằng nên có 3 phương án tuyển sinh dựa vào các nhóm yếu tố được các nước trên thế giới xem xét khi tuyển sinh. Đó là dựa vào kết quả các kỳ thi THPT, rồi các trường tự tổ chức kỳ thi TS hoặc kỳ thi chuẩn hóa, phương pháp này được áp dụng nhiều ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ.

Từ đó, ở Việt Nam có thể có 3 phương án tuyển sinh như sau: Các trường/ngành không đặc thù, không có tính cạnh tranh cao hoặc không sử dụng kinh phí của nhà nước thì sử dụng kết quả thi tốt nghiệp THPT và xét học ba; các trường/ngành đặc thù, có tính cạnh tranh cao hoặc đòi hỏi năng lực, năng khiếu đặc biệt của người học thì sử dụng kết quả kỳ thi tốt nghiệp THPT và kết quả của một kỳ thi khác theo yêu cầu hoặc kỳ thi đầu vào do chính trường tổ chức; các hệ đào tạo đặc biệt (hoàn thiện ĐH, tại chức, đào tạo từ xa, văn bằng 2) thì xét hồ sơ xin học kèm theo yếu tố dân số, cần kiểm tra thường xuyên trong quá trình học theo nguyên tắc mở rộng đầu vào, thắt chặt đầu ra.

Cô Đồng Thị Tuyết Hạnh, ĐHQG TPHCM, băn khoăn: “Nếu tổ chức một kỳ thi TN THPT quốc gia thì đề thi chung sẽ được soạn thảo và đảm bảo như thế nào? Làm sao phân định được hai mục đích rõ ràng của kỳ thi trong một đề thi? Ai sẽ là người kiểm chứng rằng đề thi có thể xác định chính xác trình độ và phân loại được HS để vừa công nhận TN vừa xét tuyển vào ĐH, CĐ”?

Theo cô, không nên bỏ kỳ thi nào trong hai kỳ thi TN THPT và TSĐH vì mỗi kỳ thi có mỗi đặc thù và sàng lọc HS theo tiêu chí riêng.

PGS. TS. Nguyễn Văn Nhã (Trưởng ban Đào tạo- ĐHQG Hà Nội) nêu quan điểm mỗi trường tùy theo nhu cầu mà có cách tuyển sinh riêng như xét tuyển hồ sơ, phỏng vấn trực tiếp, thi viết hoặc kiểm tra trình độ, năng lực, trắc nghiệm khách quan chứ không nên lấy một chuẩn chung nào cho việc TSĐH trên toàn quốc.

Mục tiêu của kỳ thi TN THPT là nhằm đánh giá kiến thức của HS sau 12 năm, còn TSĐH, CĐ lại nhằm mục tiêu chọn người có đủ trình độ, kỹ năng để theo học chương trình của trường ĐH, CĐ mà họ đăng ký học.

DIỄM LỆ (SGGP 12G

Thứ Năm, 18 tháng 12, 2008

THỬ ĐỀ XUẤT CÁC PHƯƠNG ÁN TUYỂN SINH ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG TẠI VIỆT NAMSAU NĂM 2009

THỬ ĐỀ XUẤT CÁC PHƯƠNG ÁN TUYỂN SINH ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG TẠI VIỆT NAM SAU NĂM 2009
TS. Vũ Thị Phương Anh
GĐ TTKT&ĐGCLĐT
Mở đầu
Theo đề án đổi mới thi và tuyển sinh của Bộ GD-ĐT, từ sau kỳ thi tuyển sinh đại học lần cuối cùng vào năm 2009 sẽ chỉ còn một kỳ thi trung học phổ thông quốc gia mà kết quả sẽ được sử dụng làm một trong những căn cứ để xét vào đại học. Như vậy, để chuẩn bị cho đợt tuyển sinh năm 2010, việc đưa ra các phương án tuyển sinh phù hợp với mục tiêu đào tạo của từng trường nhất thiết phải đặt ra ngay từ lúc này.

Cho đến nay, đã có khá nhiều phương án được đề cập cho việc tuyển sinh từ năm 2010. Chẳng hạn, các trường có thể xét tuyển dựa trên kết quả của một số môn thi trong kỳ thi THPT, có hoặc không có trọng số; tự tổ chức thêm kỳ thi tuyển sinh cho một số môn học để lấy kết quả xét tuyển; hoặc xét kết hợp điểm thi THPT và kết quả học tập ở THPT. Hai phương án có tính đổi mới hơn là sử dụng kết quả của một kỳ thi theo kiểu SAT để bổ sung thêm căn cứ xét tuyển; và cuối cùng là ghi danh tự do cho mọi đối tượng đã hoàn tất THPT.

Tất cả các phương án vừa nêu đều đã và đang được áp dụng ở nơi này hay nơi khác trên thế giới. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam hiện nay là nên chọn phương án hoặc tập hợp các phương án nào, và tại sao? Bài viết này nhằm giới thiệu các nhóm yếu tố thường được xem xét trong chính sách tuyển sinh của các trường đại học trên thế giới, phân tích mục tiêu mà các yếu tố này nhắm đến, trên cơ sở đó đề xuất một phương án tuyển sinh đại học và cao đẳng từ năm 2010 tại Việt Nam.

Các nhóm yếu tố được xem xét trong chính sách tuyển sinh trên thế giới
Có 4 nhóm yếu tố thường được xem xét khi xây dựng một hệ thống tuyển sinh đại học trên thế giới (1) kết quả của các kỳ thi, (2) kết quả học tập ở trung học phổ thông; (3) hồ sơ xin học, và (4) các yếu tố dân số như giới tính, dân tộc, tuổi tác, và điều kiện kinh tế - xã hội của người học. Mỗi nhóm yếu tố được sử dụng nhằm đạt những mục tiêu khác nhau.

1. Kết quả của các kỳ thiĐây là nhóm yếu tố được sử dụng phổ biến nhất trong mọi hệ thống tuyển sinh trên thế giới. Các kỳ thi được sử dụng gồm thi TN THPT; thi tuyển sinh đại học; và kỳ thi chuẩn hóa (standarrdised test, tương tự như SAT của Hoa Kỳ), trong đó hai kỳ thi TN THPT và tuyển sinh đại học là phổ biến hơn cả. Kỳ thi chuẩn hóa có thể nói là sản phẩm đặc thù của nền giáo dục Hoa Kỳ và hiện cũng đang được một số quốc gia chịu ảnh hưởng của giáo dục Hoa Kỳ và có điều kiện tương tự Hoa Kỳ áp dụng.
Mỗi kỳ thi nêu trên nhắm đến một mục tiêu khác nhau; tuy nhiên hai kỳ thi TN THPT và tuyển sinh đại học có nhiều điểm chung vì đều dựa vào chương trình học ở trung học phổ thông. Thi TN THPT nhằm xác nhận người học đã đạt mức tối thiểu của trình độ THPT, còn thi tuyển sinh đại học nhằm chọn lọc những người có kiến thức và kỹ năng tốt nhất trong các thí sinh. Kỳ thi chuẩn hóa theo kiểu SAT trái lại thường không dựa vào các kiến thức và kỹ năng đã được cung cấp trong chương trình đào tạo ở THPT, mà hoặc có tính đặc thù hoặc tổng quát hơn, nhằm đánh giá khả năng thành công của thí sinh khi vào học ở bậc đại học.
Do khác nhau về mục tiêu nên các kỳ thi nêu trên cũng thuộc thẩm quyền quản lý của các cơ quan khác nhau. Thi tốt nghiệp THPT thường do nhà nước (có thể ở cấp quốc gia hoặc cấp địa phương) quản lý, nhằm bảo đảm giáo viên và học sinh hoàn tất mọi yêu cầu tối thiểu của chương trình đào tạo. Thi tuyển sinh đại học thường do chính trường đại học thực hiện để lấy kết quả làm cơ sở ra quyết định về việc lựa chọn thí sinh trong trường hợp số chỗ học ít hơn số người muốn học. Ở một số quốc gia trên thế giới, tuyển sinh đại học cũng do nhà nước quản lý, đặc biệt là đối với hệ thống giáo dục đại học công, vì có sử dụng ngân sách nhà nước. Trong khi đó, kỳ thi chuẩn hóa là một hoạt động chuyên môn có tính dịch vụ nhằm giúp người học chứng minh khả năng học tập của mình, vì vậy thường do các tổ chức khảo thí chuyên nghiệp thực hiện. Các tổ chức này thường độc lập với cơ quan quản lý nhà nước, và có thể thuộc các trường đại học (vd: ĐH Cambridge của Anh, hoặc ĐH Michigan của Hoa Kỳ), hoặc cũng có thể nằm ngoài các trường. Việc sử dụng kết quả của kỳ thi này như một căn cứ để xét tuyển tùy thuộc vào sự lựa chọn của từng trường dựa trên giá trị của chính các kỳ thi này trong việc giúp nhà trường lựa chọn được thí sinh tốt nhất để đào tạo.

Việc sử dụng kỳ thi nào trong phương án tuyển sinh hoàn toàn tùy thuộc vào mục tiêu và điều kiện của từng quốc gia cũng như từng trường đại học cụ thể. Những quốc gia phát triển như nhiều nước ở Châu Âu hoặc các nước Bắc Mỹ, nơi có một hệ thống giáo dục phổ thông có chất lượng tốt và có đầy đủ chỗ học ở đại học cho mọi người thì hầu như chỉ cần kỳ thi tốt nghiệp THPT; việc có thêm một kỳ thi tuyển sinh hoặc kỳ thi chuẩn hóa là vấn đề thuần túy chuyên môn và vì vậy sẽ do từng trường quyết định. Tuy nhiên, ở các hệ thống giáo dục đại học có sự phân biệt rõ ràng giữa đại học công (được nhà nước đầu tư và thường có chất lượng cao hơn) và đại học tư (người học đóng học phí và chất lượng thường kém hơn các đại học công) như ở Nhật Bản, Hàn Quốc thì sự cạnh tranh vào trường đại học công vẫn hết sức gay gắt; vì vậy, các kỳ thi thực sự có vai trò gác cổng (gatekeeping) và việc tổ chức thêm một hoặc thậm chí thêm nhiều kỳ thi khác sau kỳ thi TN THPT rõ ràng là điều cần thiết để loại bớt những thí sinh mà các trường không có khả năng để nhận.


2. Kết quả học tập ở trung học phổ thông
Các kỳ thi lớn dù có được tổ chức nghiêm túc đến đâu, và dù có tổ chức bao nhiêu kỳ thi đi nữa, cũng chỉ đánh giá được phần nào kiến thức và năng lực của một học sinh, mà chủ yếu là kiến thức sách vở và năng lực hàn lâm. Trong khi đó, việc quá nhấn mạnh vào các kỳ thi có vai trò gác cổng như trên có thể là nguyên nhân dẫn đến những tiêu cực trong thi cử, làm mất hoàn toàn ý nghĩa của việc tổ chức thi, chưa kể sự căng thẳng đối với người học và gia đình, sự tốn kém công sức và tiền bạc của toàn xã hội, vv. Vì vậy, ở một số nước tiên tiến trên thế giới, thay vì tổ chức nhiều kỳ thi tốn kém để lấy kết quả tuyển sinh, các trường đại học có thể sử dụng kết quả học tập ở bậc phổ thông (xét học bạ) để kết hợp hoặc độc lập đánh giá khả năng thành công ở bậc đại học của các ứng viên.

Sử dụng kết quả học tập ở bậc phổ thông để xét tuyển vào đại học là một cách làm tiên tiến về nhiều mặt. Trước hết, cách làm này thể hiện quan điểm phát triển, vì học bạ cho phép nhìn nhận sự năng lực của người học qua suốt một quá trình, chứ không chỉ ở điểm cuối, giúp phát hiện những học sinh có nỗ lực cải thiện, có năng khiếu hoặc sự say mê đặc biệt đối với ngành học, và thông qua các nhận xét của giáo viên có thể cho phép bộc lộ tính cách lẫn các mối quan hệ của học sinh trong suốt thời gian học tập ở bậc phổ thông. Điều này sẽ cho phép các trường đại học có được quyết định đúng đắn hơn đối với quá trình tuyển sinh.

Bên cạnh đó, việc xem xét kết quả ở bậc phỏ thông trong quá trình tuyển sinh cũng thể hiện quan điểm dân chủ và hợp tác trong giáo dục. Với cách làm này, quyền đánh giá người học đã được các trường đại học trao về cho các giáo viên phổ thông, là những người trực tiếp giáo dục và có thể tạo ra những thay đổi quan trọng ở học sinh. Việc xem xét học bạ ở phổ thông ở đầu vào và sau đó theo dõi quá trình học ở bậc đại học của một sinh viên sẽ tạo ra sự liền mạch trong quá trình giáo dục từ trung học lên đại học, đồng thời cũng tạo điều kiện cho quá trình hợp tác giữa trường đại học và trường phổ thông trong quá trình giáo dục.
Tuy có những ưu điểm như vậy, song việc xét học bạ trong tuyển sinh thường không được sử dụng phổ biến ở những nước đang phát triển vốn không có một nền giáo dục đại học đại chúng. Điều này là do sự thiếu thống nhất về quan điểm đánh giá khiến kết quả tại các trường trung học phổ thông có thể rất khác nhau và không thể so sánh để tạo cơ hội công bằng cho mọi người, trong điều kiện không có đủ chỗ học cho mọi người muốn học. Tại một nước như Việt nam với nhiều rất nhiều bất cập, thiếu thốn trong giáo dục phổ thông, nơi có được tấm bằng đại học vẫn hầu như là cánh cửa vào đời duy nhất đối với thanh niên, thì việc xét tuyển vào đại học bẳng kết quả học tập ở bậc phổ thông cần phải thực sự cân nhắc trước khi sử dụng, và nhất thiết phải sử dụng kết hợp với những yếu tố khác có tính khách quan hơn như các kỳ thi đã nêu ở phần trên.


3. Hồ sơ xin học
Học bạ ở phổ thông chỉ bao gồm những thông tin về người học do các giáo viên và nhà trường cung cấp, trong khi hồ sơ xin học còn có những thông tin do chính người học cung cấp. Thông thường, trong hồ sơ xin học ngoài học bạ còn có thêm những thông tin sau đây về người học: lý lịch tự thuật, quá trình làm việc (nếu có), thư tự giới thiệu nêu lý do chọn trường và mục tiêu của việc học, và một hoặc nhiều thư giới thiệu của những người có khả năng đánh giá tính cách và năng lực của người học (chẳng hạn các giáo viên, hiệu trưởng trường trung học, các cơ quan, tổ chức bên ngoài nhà trường đã từng tiếp xúc hoặc làm việc với ứng viên).
Sử dụng hồ sơ xin học như một yếu tố để xét tuyển là một bước tiến xa hơn của quá trình dân chủ hóa và hợp tác trong giáo dục. Nếu việc xét học bạ cho phép giáo viên và trường trung học phổ thông tham gia vào việc đánh giá người học thì hồ sơ xin học cho phép người học tự xây dựng hình ảnh về năng lực của chính mình thông qua các thông tin do chính mình chọn lọc và cung cấp. Một hồ sơ xin học với đầy đủ các thành phần như vừa nêu không chỉ cho thấy học lực của người học mà còn cho phép đánh giá về khả năng diễn đạt, lập luận và thuyết phục, quan điểm và sự trưởng thành, sự say mê đối với ngành học của người học vv.
Cách làm này vì vậy rất phù hơp với một số ngành đặc thù đòi hỏi sự đam mê hoặc/ và kinh nghiệm cũng như bản lãnh của người học, đặc biệt là những người hoc ngoài lứa tuổi truyền thống, là những điều rõ ràng không thể bộc lộ qua những điểm số trong học bạ hoặc kết quả của những kỳ thi. Điểm bất lợi lớn nhất của cách làm này là nếu số lượng thí sinh quá lớn thì quá trình đọc và xét hồ sơ sẽ đòi hỏi khá nhiều thời gian và công sức của trường đại học. Ngoài ra, một bất lợi khác là các ứng viên không thành công thường không có điều kiện để biết lý do của sự thất bại của mình để cải thiện khi cần.


4. Các yếu tố dân số
Ba nhóm yếu tố vừa nêu – thi cử, học bạ, hồ sơ xin học – chủ yếu liên quan đến năng lực, đặc biệt là năng lực trí tuệ, chứ không liên quan đến các yếu tố về nhân thân của người học, như giới tính, tuổi tác, nhóm xã hội, địa phương vv. Điều này là cần thiết để đảm bảo sự công bằng trong việc lựa chọn theo nguyên tắc người có năng lực cao nhất sẽ có cơ hội cao nhất để được lựa chọn. Tuy nhiên, xét ở góc độ xã hội, các nhóm đối tượng thiệt thòi (dân tộc thiểu số, nữ giới, dân cư vùng sâu vùng xa, các nhóm có thu nhập thấp vv) sẽ luôn có nguy cơ bị loại cao hơn các nhóm khác, dẫn đến sự bất bình đẳng kéo dài cho các đối tượng này. Ngoài ra, sự đa dạng (diversity) về mặt dân số của người học cũng là một điều kiện cần thiết để tạo một môi trường phát triển toàn diện cho sinh viên trong các trường đại học. Chính vì vậy, các yếu tố dân số cũng thường được xem xét như một yếu tố bổ sung trong phương án tuyển sinh của nhiều trường đại học trên thế giới.

Việc xem xét các yếu tố dân số trong việc tuyển chọn ứng viên vào trường đại học có thể do chính nhà trường quyết định, hoặc do các chính sách xã hội chung của nhà nước. Ở Hoa Kỳ và một số nước tiên tiến khác, các trường có thể tuyên bố trước các “định mức” (quota) về tỷ lệ phần trăm nữ giới hoặc dân tộc thiểu số sẽ được ưu tiên tuyển vào trường để khuyến khích các đối tượng này tham gia dự tuyển. Khi xét tuyển, các đối tượng này sẽ được xét riêng theo thứ tự từ trên xuống dưới trong cùng nhóm, nhưng không xét chung với các nhóm không ưu tiên, để đảm bảo luôn tuyển đủ chỉ tiêu đã định.
Khi sử dụng các yếu tố dân số trong tuyển sinh, cần ghi nhớ rằng sự công bằng xã hội sẽ không thể đạt được nếu như các ứng viên được ưu tiên tuyển vào trường lại không thể thành công trong quá trình học. Vì vậy, việc xét tuyển theo các yếu tố dân số luôn kèm theo ít nhất là 1 trong các yêu cầu sau: (1) ứng viên phải có được năng lực tối thiểu để tham gia chương trình (vd: đã tốt nghiệp THPT ở mức trung bình khá trở lên); (2) nhà trường có điều kiện và kế hoạch để hỗ trợ sinh viên diện ưu tiên khi đã được chọn vào học để đảm bảo sự thành công của sinh viên; (3) nhà trường có chính sách giúp sinh viên “có lối thoát” khi có nguy cơ không thể hoàn tất chương trình trong hạn định (vd: cho phép chuyển sang ngành học phù hợp hơn, chuyển xuống trình độ thấp hơn, cho phép tạm ngưng và quay trở lại học khi có điều kiện vv). Trong 3 yêu cầu vừa nêu, yêu cầu cuối cùng là điều tối thiểu mà một trường phải thực hiện được cho các đối tượng ưu tiên, và điều này không khó vì chỉ điều kiện cần duy nhất là có một hệ thống đào tạo theo tín chỉ với các chính sách liên thông rõ ràng để giải quyết yêu cầu cuối cùng này.

Thử đề xuất các phương án tuyển sinh sau năm 2009
Do các trường và các ngành đào tạo có các mục tiêu và yêu cầu khác nhau nên không thể có một phương án tuyển sinh tối ưu chung cho tất cả mọi người, mà cần thiết phải có phân biệt giữa các nhóm trường/ngành khác nhau. Điều này cũng tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh phân tầng (stratification) giáo dục đại học ở Việt Nam, vốn là điều hết sức cần thiết trong quá trình đại chúng hóa giáo dục đại học trên toàn thế giới hiện nay.
Trên cơ sở các nhóm yếu tố đã nêu, có thể đề xuất 3 phương án tuyển sinh cho các nhóm trường/ ngành, các đối tượng ưu tiên, và các hệ đào tạo đặc biệt từ năm 2010 như sau:

1. Nhóm 1; Các trường/ngành không đặc thù, không có tính cạnh tranh cao, và/ hoặc không sử dụng kinh phí của nhà nước: Sử dụng kết quả thi TN THPT và xét học bạ
Nhóm này bao gồm đa số các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng công lập và ngoài công lập, các trường đại học tư thục, và một số trường đại học công thuộc khối ngành xã hội (bao gồm cả kinh tế-luật) và nhân văn (trừ ngoại ngữ).
Đối với nhóm này, phương án tốt tốt nhất là xét tuyển trên cơ sở các môn thi TN THPT kết hợp với học bạ THPT. Việc xét học bạ THPT có thể thực hiện ngay từ khi học sinh đang ở học kỳ 2 của lớp 11 với kết quả sơ tuyển (thay thế cho việc đăng ký nguyện vọng hiện nay) được báo trước cho ứng viên vào khoảng cuối HK 1 năm lớp 12. Trên cơ sở các ứng viên đã được sơ tuyển, nhà trường có thể hình dung ra số lượng sinh viên tiềm năng của từng ngành đào tạo để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho năm học mới. Các ứng viên sẽ được nhận chính thức khi nộp kết quả kỳ thi TN THPT theo các yêu cầu cần đạt do nhà trường đưa ra.
Đa số các đối tượng ưu tiên sẽ được xét trong nhóm này tại các trường công lập (đặc biệt là các thí sinh khối C hiện nay), với tỷ lệ xét tuyển ưu tiên trong toàn bộ thí sinh được công bố trước cho mọi thí sinh biết. Việc xét tuyển phải xét theo nguyên tắc từ cao xuống thấp và xét riêng các đối tượng ưu tiên cho đến khi đủ chỉ tiêu.


2. Nhóm 2: Các trường/ngành đặc thù, có tính cạnh tranh cao, đòi hỏi năng lực/ năng khiếu đặc biệt của người học, và/ hoặc nhận được sự đầu tư đặc biệt của nhà nước: Sử dụng kết quả của kỳ thi TN THPT (có hoặc không kèm theo việc xét học bạ) và kết quả của một kỳ thi khác
Nhóm 2 gồm đa số các trường đại học công lập, đặc biệt là các đại học trọng điểm; các chương trình tiên tiến, tài năng, chất lượng cao, các chương trình liên kết với nước ngoài thuộc các trường đại học cả công lập và ngoài công lập, các ngành đòi hỏi phòng thí nghiệm, thiết bị và điều kiện học tập đặc biệt như y, nha, một số ngành kỹ thuật, một số ngành học đặc thù/năng khiếu như mỹ thuật, kiến trúc, nhạc, họa, ngoại ngữ vv.
Đối với nhóm này, việc sơ tuyển có thể thực hiện tương tự nhóm 1 với những điều kiện khắt khe hơn (vd: chỉ xét các học sinh đạt loại giỏi, hoặc học sinh thuộc các trường chuyên, trường trọng điểm, chương trình chất lượng cao vv). Tuy nhiên, sau khi có kết quả TN THPT theo các yêu cầu cần đạt do nhà trường đưa ra (thường ở mức cao hơn nhóm 1), nhất thiết phải có thêm một kỳ thi, hoặc là kỳ thi đầu vào do chính nhà trường tổ chức, hoặc là một kỳ thi chuẩn hóa (đặc thù hoặc tổng quát, theo kiểu SAT của Hoa Kỳ, hoặc O level của Anh) do một tổ chức khảo thí chuyên nghiệp trong hoặc ngoài nước tổ chức.
Do đây là nhóm ngành học đặc thù, đòi hỏi thí sinh phải năng lực/ năng khiếu tối thiểu để thành công, nên mức điểm đạt tối thiểu của kỳ thi này phải được xác định trước và công bố cho mọi thí sinh được biết để tự lượng sức. Tuy nhiên, việc trúng tuyển sẽ được xét từ trên xuống dưới đối với tất cả các trường hợp đạt điểm sàn.
Các đối tượng ưu tiên nếu muốn được xét trong nhóm này vẫn cần phải dự đầy đủ các kỳ thi và đạt mức điểm tối thiểu đã được công bố trước để đảm bảo khả năng thành công của thí sinh khi trúng tuyển. Việc xét tuyển cũng xét theo nguyên tắc từ cao xuống thấp và xét riêng các đối tượng ưu tiên cho đến khi đủ chỉ tiêu.


3. Nhóm 3; Các hệ đào tạo đặc biệt (hoàn thiện đại học, tại chức, đào tạo từ xa, văn bằng 2 vv): Xét hồ sơ xin học (ghi danh) kèm các yếu tố dân số
Đối tượng sinh viên được phép theo học các hệ đào tạo đặc biệt chỉ nên bao gồm các thí sinh ngoài độ tuổi truyền thống (18-24). Do đây là đối tượng đã hoàn toàn trưởng thành và thường đã có kinh nghiệm làm việc, nên hồ sơ xin học sẽ là căn cứ quan trọng nhất để phán đoán về khả năng thành công trong chương trình học. Ngoài hồ sơ xin học, các thí sinh này cũng cần có yêu cầu tối thiểu về trình độ (vd: đã hoàn tất chương trình THPT).
Các yếu tố dân số đối với đối tượng này cũng rất quan trọng, không chỉ với mục đích ưu tiên mà chủ yếu để tạo một môi trường đa dạng trong học tập vốn rất cần thiết đối với đối tượng ở độ tuổi phi truyền thống. Ngoài ra, tùy yêu cầu của từng ngành học, nhà trường có thể yêu cầu thí sinh cung cấp thêm thêm kết quả của một kỳ thi chuẩn hóa được tổ chức nhiều lần trong năm để tạo điều kiện cho thí sinh theo học bất cứ khi nào đủ điều kiện.
Do điều kiện đầu vào khá mở nên việc quản lý đối với đối tượng này cần rất chặt chẽ thông qua việc kiểm tra thường xuyên trong quá trình học theo nguyên tắc mở rộng đầu vào, thắt chặt đầu ra. Đồng thời, do tiến độ học tập của các sinh viên sẽ rất đa dạng, nên một cơ chế quản lý linh hoạt là hết sức cần thiết. Ở đây, một lần nữa có thể thấy một hệ thống tín chỉ hoàn chỉnh, vận hành tốt, với các cơ chế liên thông được đảm bảo, là một điều kiện rất cần cho sự thành công của người học trong chương trình đào tạo.

Kết luận
Vai trò quan trọng của trường đại học trong nền kinh tế tri thức toàn cầu hiện nay không còn gì để bàn cãi. Nhưng để trường đại học thực sự là một động lực phát triển xã hội thì mọi chính sách có liên quan đến quá trình giáo dục đều cần được cân nhắc cẩn thận, trong đó tuyển sinh là khâu quan trọng đầu tiên. Và hai nguyên tắc quan trọng nhất trong việc xây dựng các chính sách của một ngành có liên quan đến tất cả mọi người là ngành giáo dục là phải xem xét quyền lợi của tất cả các bên có liên quan, và thực hiện trao quyền khi đã có đủ điều kiện. Các đề xuất được đưa ra trong bài viết này, dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của các nước trên thế giới, đã cố gắng tôn trọng các nguyên tắc nói trên, và hy vọng có thể chỉ ra được một số định hướng phù hợp để tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục đại học Việt Nam trong những năm sắp đến.


Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007). Tài liệu Hội thảo – Tập huấn về thi năm 2008 (lưu hành nội bộ). Hà Nội, Cục Khảo thí và Đánh giá chất lượng đào tạo.
2. Cabrera, A. F., and K. R. Burkum (2001) College Admission Criteria in the United States: An Overview. Paper presented at Balance del sistema de acceso a la universidad (selectividad y modelos alternativos). Cátedra UNESCO de Gestión y Política Universitaria. Madrid, Spain.
3. Helms, R. M. (2008) University Admission Worldwide. Working Paper Series 15. Washington D.C., World Bank.
4. Oregon State Board of Higher Education (2007). Undergraduate Admission Policy for 2008-2009 Academic Year.


--------------------------------------------------------------------------------

Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2008

TUYỂN SINH ĐẠI HỌC TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG LƯU Ý CHO CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

TUYỂN SINH ĐẠI HỌC TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG LƯU Ý CHO CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Vũ Thị Phương Anh

Cùng với sự gia tăng về tầm quan trọng của giáo dục đại học trong nền kinh tế tri thức, tuyển sinh đại học đang là một vấn đề được đặc biệt quan tâm trong các cuộc cải cách giáo dục trên thế giới. Trong bối cảnh này, Tháng 7/2008 vừa qua Ngân hàng Thế giới đã cho xuất bản tài liệu University Admission Worldwide (Tuyển sinh đại học trên thế giới) của tác giả Robin Matross Helms. Mục đích của tài liệu là giúp đỡ các nhà lãnh đạo giáo dục các nước đang phát triển cải cách việc tuyển sinh đại học, vì theo tác giả, việc tuyển sinh hiện nay tại các nước đang phát triển là một thực tại đầy những lo ngại và thách thức do sự thiếu minh bạch, thiên vị và bất công. Bài viết này tóm tắt những thông điệp chính từ tài liệu nói trên nhằm góp phần định hướng cho việc đổi mới tuyển sinh đại học tại Việt Nam theo kế hoạch đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo vạch ra.

Các hệ thống tuyển sinh đại học trên thế giới
Để cải cách tuyển sinh đại học, các nước đang phát triển cần học hỏi từ quốc gia nào? Trả lời câu hỏi này không phải là dễ, vì công tác tuyển sinh đang được thực hiện rất khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Theo Helms, các hệ thống tuyển sinh đại học trên thế giới có thể chia thành 5 loại, dựa vào sự có mặt hoặc không có mặt của một hoặc nhiều trong 3 kỳ thi quan trọng: kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, kỳ thi tuyển sinh đại học, và bài kiểm tra năng lực chuẩn hóa (standardized aptitude test).

Bảng 1: Bảng phân loại các hệ thống tuyển sinh trên thế giới

Loại 1: Thi tốt nghiệp (TN) trung học phổ thông (Secondary Leaving Examinations):
+ Thi TN quốc gia: Pháp, Áo, Ireland, Ai Cập
+ Thi TN quốc gia và xét học bạ trung học phổ thông: Tanzania
+ Thi TN quốc gia và xét hồ sơ xin học: Anh
+ Thi TN theo tiểu bang/ khu vực và xét học bạ trung học phổ thông: Úc
Loại 2: Thi tuyển sinh đại học (Entrance Examinations)
+ Thi tuyển sinh quốc gia: Trung Quốc, Iran, Cộng hòa Gruzia
+ Thi tuyển sinh quốc gia và xét học bạ trung học phổ thông: Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha
+ Thi tuyển sinh theo từng trường: Argentina, Paraguay
+ Thi tuyển sinh theo từng trường và xét học bạ trung học phổ thông: Bulgaria, Serbia
Loại 3: Xét kết quả kiểm tra năng lực chuẩn hóa (Standardized Aptitude Tests)
+ Xét kết quả kiểm tra năng lực chuẩn hóa, hoặc xét học bạ trung học phổ thông: Thụy Điển
+ Xét kết quả kiểm tra năng lực chuẩn hóa và hồ sơ xin học: Mỹ
Loại 4: Sử dụng nhiều kỳ thi (Multiple Examinations)
+ Thi tuyển sinh quốc gia, và thi tuyển sinh theo từng trường: Nhật, Nga, Pháp (hệ thống Grande Ecoles)
+ Thi tuyển sinh quốc gia, thi tuyển sinh theo từng trường, và/ hoặc xét học bạ trung học phổ thông: Brazil
+ Thi TN phổ thông và xét điểm tuyển sinh theo từng trường: Phần Lan
+ Thi TN phổ thông và xét kết quả kiểm tra năng lực chuẩn hóa: Israel
+ Thi nhiều kỳ thi do nhiều nơi tổ chức: India
Loại 5: Không tổ chức thi (No Examinations)
+ Chỉ xét xọc bạ trung học phổ thông: Na Uy, Canada
+ Chỉ xét hồ sơ xin học mà không cần kết quả kiểm tra năng lực chuẩn hóa: một số trường của Mỹ


Bảng phân loại các hệ thống tuyển sinh trên thế giới cho thấy chính sách tuyển sinh của các quốc gia là rất khác nhau, vì chúng được thiết lập để phù hợp với các điều kiện cụ thể của từng quốc gia nhằm phục vụ các mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên, với tất cả sự khác biệt vừa nêu, các hệ thống tuyển sinh đại học trên thế giới cũng rất giống nhau. Có thể nói, 5 hệ thống được nêu trong bảng phân loại nói trên tựu trung tạo thành 2 nhóm chính: một nhóm tuyệt đối hóa vai trò của các kỳ thi (thi tốt nghiệp THPT, thi tuyển sinh đại học, hoặc kỳ thi năng lực chuẩn hóa) do nhà nước hoặc một tổ chức bên ngoài trường đại học đứng ra tổ chức hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp; nhóm còn lại không chỉ sử dụng kết quả của các kỳ thi mà còn thêm vào những tiêu chí khác, và cho phép các trường tự quyết định một số tiêu chí xét tuyển sao cho phù hợp với mục tiêu đào tạo của từng trường.

Đâu là mô hình tốt nhất cho một nước đang phát triển? Việt Nam nên chọn hệ thống nào trong 5 hệ thống đã nêu, hoặc đơn giản hơn, nên theo nhóm nào trong 2 nhóm vừa nêu?

Những vấn đề cần xem xét khi thiết lập một hệ thống tuyển sinh đại học
Thật ra, vay mượn hoàn toàn mô hình của một nước khác không phải là cách tốt để giúp thiết lập một hệ thống tuyển sinh đại học phù hợp với mục tiêu, bối cảnh và nguồn lực của đất nước. Để có những phán đoán và lựa chọn đúng về các phương thức tuyển sinh, cần hiểu rõ tác động của một số lựa chọn đến chất lượng và hiệu quả của một hệ thống tuyển sinh. Theo Helms, có 5 vấn đề cần xem xét và đưa ra những lựa chọn với những hệ quả kèm theo.

1. Mức độ kiểm soát của nhà nước
Việc kiểm soát của nhà nước đối với việc tuyển sinh đại học được thực hiện bằng 3 biện pháp:
- Quyết định chỉ tiêu tuyển sinh (hoặc ở một số nơi, số lượng thí sinh sẽ được nhận học bổng của nhà nước) mà mỗi trường và mỗi chương trình đào tạo được phân bổ;
- Thiết lập một quy trình tuyển sinh thống nhất được điều phối từ trung ương;
- Trực tiếp điều hành kỳ thi tốt nghiệp THPT hoặc tuyển sinh đại học.

Mức độ kiểm soát cao nhất là khi nhà nước thực hiện cả 3 biện pháp nói trên, ví dụ như ở Trung Quốc, cũng như tại Việt Nam hiện nay. Ở nhiều nước, nhà nước chỉ nắm quyền kiểm soát một phần và tập trung vào một hoặc hai trong những biện pháp nói trên, và giao quyền cho các trường hoặc một tổ chức khảo thí độc lập thực hiện những biện pháp còn lại.

Trên nguyên tắc, nhà nước càng nắm quyền kiểm soát chặt chẽ ở đầu vào (tuyển sinh) thì càng đảm bảo chất lượng cũng như hiệu quả ở đầu ra (sinh viên tốt nghiệp). Điều này là cần thiết để nhà nước có thể thực hiện những điều tiết mang tính chiến lược, ví dụ như thu hút đủ số sinh viên học ở một ngành cụ thể nhằm đáp ứng thị trường lao động. Tuy nhiên, trên thực tế thì việc kiểm soát của nhà nước không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả mong đợi, vì có rất nhiều yếu tố tác động đến kết quả của các chính sách tuyển sinh, ví dụ như tỷ lệ du học ở nước ngoài hoặc nạn chảy máu chất xám.

Trong khi đó, nếu nhà nước giảm bớt sự kiểm soát của mình và giao thêm quyền tự chủ cho các trường trong công tác tuyển sinh, thì các trường sẽ có cơ hội để tự tìm ra được những phương thức phù hợp nhất với sứ mạng, mục tiêu, và nguồn lực của mình. Mỗi trường sẽ khai thác được tối đa các thế mạnh của mình để thu hút và đào tạo ra các sinh viên tốt nhất trong từng lãnh vực chuyên môn riêng biệt để cung cấp cho thị trường lao động và đóng góp vào nền kinh tế của đất nước.

2. Mức độ khách quan của các tiêu chí tuyển sinh
Việc sử dụng điểm thi như một (trong những) tiêu chí tuyển sinh, đặc biệt là các kỳ thi trắc nghiệm khách quan (TNKQ) là nhằm đạt được sự chuẩn hóa và khách quan trong tuyển sinh. Khi tất cả các thí sinh cùng được kiểm tra trên cùng một bài thi, thì việc so sánh để tuyển chọn sinh viên xem ra rất khách quan vì dựa trên những điểm số minh bạch. Sự minh bạch này là rất cần thiết tại các quốc gia có tồn tại sự tiêu cực trong giáo dục. Tuy nhiên, ngay cả nếu chỉ sử dụng kết quả của các kỳ thi trong tuyển sinh thì cũng không hoàn toàn tránh được yếu tố chủ quan, trước hết là vì thực ra đa số các kỳ thi đều phải có phần thi tự luận, vốn đòi hỏi phải đánh giá theo phương pháp chủ quan. Ngoài ra, kể cả khi thi bằng TNKQ thì cũng chỉ có phần chấm điểm là khách quan hoàn toàn, còn việc chọn lựa nội dung kiểm tra, xây dựng đáp án, đặt trọng số cho các phần của bài thi … đều là những việc làm có ít nhiều tính chủ quan.

Vì vậy, việc sử dụng thêm một số tiêu chí chủ quan khác như thư giới thiệu, học lực phổ thông, hoặc kết quả phỏng vấn trong xét tuyển để làm tăng sự đa dạng của các tiêu chí tuyển sinh sẽ có tác dụng tốt, tránh được những hậu quả của việc “dồn hết trứng vào một rổ”, làm cho việc tuyển sinh được công bằng hơn, và (kỳ lạ thay!) cách làm này lại khách quan hơn là chỉ sử dụng điểm thi.

3. Độ tin cậy và độ giá trị của các bài thi sử dụng trong tuyển sinh
Với tư cách là các thước đo nhằm so sánh các thí sinh, tất cả mọi tiêu chí được dùng trong tuyển sinh, mà đặc biệt là điểm số của các bài thi tuyển chọn, đều phải đáp ứng hai yêu cầu cơ bản của một công cụ đo lường là có độ tin cậy và độ giá trị tốt. Để đáp ứng được hai yêu cầu này, các đề thi cần được xây dựng theo một quy trình chuyên nghiệp và được thử nghiệm cẩn thận, sao cho điểm số trên các bài thi thực sự phản ánh đúng năng lực cần có của thí sinh chứ không phải là một yếu tố nào khác, ví dụ như kỹ năng đối phó với một dạng thức bài thi nào đó, hoặc là kết quả của quá trình luyện thi.

Để đảm bảo đạt được độ tin cậy cao của các kỳ thi, hình thức TNKQ đã ra đời, và trong một thời gian dài các kỳ thi năng lực chuẩn hóa sử dụng hình thức TNKQ đã chiếm vai trò độc tôn. Tuy nhiên, trên thực tế việc quá nhấn mạnh tầm quan trọng của một kỳ thi nào đó sẽ dẫn đến nhu cầu luyện thi để đạt điểm cao nhất có thể được. Hệ quả của điều này là giá trị của các bài thi bị giảm sút đáng kể, vì sẽ có những thí sinh đạt được kết quả cao chỉ do có các kỹ năng đối phó với thi cử tốt. Vì vậy, ở nhiều nước tiên tiến trên thế giới hiện nay, mà đặc biệt là ở Hoa Kỳ, cái nôi của TNKQ, xu thế mới là không còn quá phụ thuộc vào điểm số đạt được của các kỳ thi năng lực chuẩn hóa (vd: SAT hoặc ACT) như trước đây nữa, mà sử dụng thêm các tiêu chí ít nhiều mang tính chủ quan khác (đã nêu ở phần 2) để góp phần nâng cao giá trị của các tiêu chí tuyển sinh.

4. Sự công bằng trong tuyển sinh
Thoạt nhìn, để đạt được sự công bằng trong tuyển sinh có vẻ là một vấn đề khá đơn giản: chỉ cần tạo điều kiện sao cho các thí sinh có năng lực tốt hơn có nhiều cơ hội học tập hơn. Nếu thống nhất với quan điểm này, thì công bằng trong tuyển sinh gần như đồng nghĩa với mức độ khách quan trong các tiêu chí tuyển sinh đã nêu ở mục 2.

Thật ra, vấn đề không đơn giản như vậy. Việc sử dụng điểm thi làm tiêu chí duy nhất trong tuyển sinh để đạt được sự khách quan đã bỏ qua một yếu tố rất quan trọng đã được các nhà chuyên môn trong lãnh vực kiểm tra đánh giá giáo dục nhiều lần nêu rõ, là nội dung của các bài thi quan trọng luôn có nguy cơ tạo ra sự đánh giá thiên lệch đối với một số đối tượng cụ thể. Ngoài ra, cơ hội làm quen với bài thi và luyện thi không đồng đều giữa các đối tượng cũng là một yếu tố tạo ra bất bình đẳng trong tuyển sinh.

Quan trọng hơn nữa, vai trò của giáo dục đại học trong việc thúc đẩy sự công bằng xã hội giữa các nhóm đối tượng cũng cần phải được xem xét. Các đối tượng thiệt thòi trong xã hội (nữ giới, dân tộc ít người, dân cư các vùng hẻo lánh) cần phải được tạo điều kiện tiếp cận với giáo dục đại học nhiều hơn để có thể đem lại các tác động tích cực đối với cộng đồng của họ. Việc tuyển sinh đơn thuần dựa vào một kỳ thi mà các nhóm đối tượng này không có nhiều cơ hội để chuẩn bị tốt chính là tạo thêm sự bất công xã hội trong giáo dục.

Nhiều hệ thống tuyển sinh trên thế giới ngày nay đã đưa thêm các yếu tố dân số như giới tính, độ tuổi, nhóm chủng tộc, nhóm xã hội vv vào các tiêu chí xét tuyển vào đại học. Tất nhiên, các chính sách liên quan đến công bằng trong tuyển sinh ở mỗi nước là khác nhau, tùy theo tình hình thực tế ở nơi đó. Ở các nước mà tiêu cực trong giáo dục đang hoành hành thì việc dựa vào những điểm số khách quan của các kỳ thi khách quan có vẻ như là giải pháp duy nhất để đem lại sự công bằng trong tuyển sinh, nhưng về lâu về dài cũng cần xem xét lại những hạn chế và hậu quả xã hội có thể có của chính sách này.

5. Kiểm soát chất lượng công tác tuyển sinh
Theo Helms, cho dù hệ thống tuyển sinh nào đang được áp dụng tại một quốc gia, thì nhất thiết công tác tuyển sinh cũng phải được triển khai một cách hiệu quả, và chất lượng công tác tuyển sinh phải được kiểm soát nghiêm nhặt để tạo được sự công bằng và chính xác trong kết quả tuyển sinh. Điều quan trọng ở đây là phải tạo ra được một hệ thống minh bạch có giám sát lẫn nhau giữa các bên có liên quan – nhà nước, trường đại học, giảng viên, sinh viên, gia đình và xã hội.

Chỉ có sự minh bạch và giám sát thường xuyên của tất cả các bên có liên quan mới có thể tạo ra một hệ thống tuyển sinh hoạt động thực sự có hiệu quả, thường xuyên phát hiện những yếu tố cần cải thiện, và thường xuyên cải thiện hệ thống để đạt được những mục tiêu mà nền giáo dục đại học của một quốc gia đã đặt ra.

Kết luận
Như đã nêu ở trên, việc vay mượn không phê phán mô hình tuyển sinh của bất kỳ nước nào trên thế giới cũng đều không đem lại sự cải thiện đối với công tác tuyển sinh ở các nước đang phát triển. Để thiết lập một hệ thống tuyển sinh phù hợp, các nhà lãnh đạo giáo dục ở mỗi quốc gia phải tự mình cân nhắc và đưa ra các lựa chọn về các vấn đề vừa nêu sao cho phù hợp với mục tiêu, bối cảnh và nguồn lực của mình. Và để có thể đưa ra những quyết định đúng đắn, điều kiện cơ bản cần phải có là một hệ thống thu thập và quản lý thông tin một cách hiệu quả. Hệ thống này sẽ cho phép phân tích và so sánh dữ liệu về số thí sinh, điểm thi, tỷ lệ nhập học, tỷ lệ tốt nghiệp, cũng như nhiều biến số khác ở các cấp quốc gia, khu vực và nhà trường. Những thông tin rút ra được từ các dữ liệu này sẽ cho phép chính phủ đánh giá hiệu quả của các quy trình tuyển sinh trong việc đáp ứng các mục tiêu kinh tế xã hội của giáo dục đại học để đưa ra những điều chỉnh cần thiết và đúng lúc.